I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Nguyễn Ái Quốc là tên gọi và cũng là bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kì hoạt động cách mạng trước năm 1945.

2. Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925, lần đầu tiên dịch và xuất bản bằng tiếng Việt tại Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục Gửi thanh niên Việt Nam. Nội dung tác phẩm nói lên nỗi khốn cùng của những người dân nô lệ và kết án thực dân Pháp phạm tội ác tày trời trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.

3. Đoạn trích thuộc chương 1 có nhan đề Thuế máu của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Văn bản được đặt tên là Thuế máu, trùng với tên chương 1. Cách đặt tên chương đã vạch trần tính chất dã man của một loại thuế đặc biệt mà thực dân Pháp đánh vào dân thuộc địa: Thuế máu.

Tên các phần trong văn bản cũng góp phần tố cáo bộ mặt thực dân Pháp, làm rõ tính chất dã man của thuế máu đánh vào người dân thuộc địa.

- Phần 1 chỉ rõ sự giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp bắt dân thuộc địa làm bia đỡ đạn và chết cho bọn tướng tá thực dân.

- Phần 2 tố cáo cái gọi là tình nguyện của những người dân thuộc địa.

- Phần 3 nói về kết quả của sự hi sinh, vạch trần những lời lẽ lừa bịp, giả nhân giả nghĩa của bọn thống trị.

Cả 3 phần làm nổi bật tính chất dã man của Thuế máu đánh vào dân thuộc địa.

2. Thái độ của các quan cai trị thực dân với người dân thuộc địa là một thái độ đổi thay đột ngột khiến người ta phải nghi ngờ sự chân thành. Trước đó, người dân thuộc địa chỉ là những kẻ "bẩn thỉu", giỏi lắm chỉ là phu kéo xe và ăn đòn; thế mà bỗng biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền", thậm chí nhảy lên địa vị vinh dự chót vót: "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do". Sở dĩ có sự thay đổi đó vì bọn thực dân thống trị đang cần những người dân thuộc địa đi làm bia đỡ đạn cho họ.

Để được gọi bằng những cái tên mĩ miều, người dân thuộc địa đã phải trả giá đắt: phải lìa bỏ quê hương, phải phơi thây trên các bãi chiến trường phải chết chìm trên biển, trên những vùng đất xa lạ "lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế"; phải làm lụng kiệt sức "khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy". Tám vạn người đã chết, một con số đầy máu và nước mắt.

3. Những thủ đoạn, mánh khoé bắt lính của bọn thực dân:

- Tiến hành vây ráp, bắt giam, cưỡng bức phải đi lính.

- Lợi dụng việc bắt lính để tham nhũng.

- Bắt con nhà nghèo. Tống tiền con nhà giàu.

- Rêu rao là người dân tình nguyện "tấp nập đầu quân".

Thực chất, người dân không hề tình nguyện như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Họ tìm đủ mọi cách để không bị bắt đi lính. Họ bị xích tay điệu về tỉnh lị; họ bị nhốt và áp tải xuống tàu, họ biểu tình, bạo động.

4. Kết quả của sự hi sinh là một con số không. Họ lại trở về "giống người bẩn thỉu" như trước khi xảy ra chiến tranh. Họ bị lột hết của cải, bị đánh đập, bị đối xử như súc vật, bị đuổi đi một cách trắng trợn: "cút đi!". Họ không được hưởng một chút công lí và chính nghĩa nào mà chính họ phải dùng tính mạng của mình để bảo vệ.

Sự đối xử của bọn thực dân là vô cùng dã man. Chúng đã bóc lột xong thuế máu, chúng quên ngay những lời tâng bốc, xu nịnh và đối xử hết sức vô nhân đạo với những người chúng phải mang ơn.

5. Các phần trong chương đều tập trung tố cáo việc bắt lính phục vụ cho chiến tranh. Sự lừa bịp của bọn thống trị đã bị vạch trần. Các lời tuyên bố của chúng mâu thuẫn với việc chúng làm. Người bản xứ đã chết thê thảm cho cuộc chiến tranh. Người bản xứ không hề tình nguyện như bọn thống trị rêu rao. Họ bị bắt lính và sau khi chiến tranh kết thúc, họ lại trở lại vị trí hèn mọn, bị ngược đãi, bị đối xử như súc vật. Kết quả của sự hi sinh là con số không.

Tác giả đã dùng giọng văn châm biếm, dùng các hình ảnh so sánh, mỉa mai để vạch trần sự lừa mị, tráo trở của bọn thực dân cai trị. Bằng nhiều nguồn tư liệu của đồng nghiệp, của chính bọn thống trị nói ra (phủ Toàn quyền Đông Dương, một quan cai trị), của tình hình thực tế ở châu Á, châu Âu, châu Phi,... tác giả đã tố cáo một cách đanh thép tội ác bóc lột thuế máu dã man của thực dân Pháp.

6. Đoạn trích là một văn bản chính luận, nhưng rất giàu yếu tố biểu cảm.

Yếu tố biểu cảm thể hiện trong thái độ mỉa mai, châm biếm, đả kích kẻ thù. Chiến tranh hết sức ác liệt thì được gọi là "chiến tranh vui tươi", cảnh chết chìm vì tàu bị trúng ngư lôi thì được gọi là "chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi" ; bãi chiến trường hoang vu được gọi là "những miền hoang vu thơ mộng" ; kẻ thống trị hiểm độc được gọi là "quan phụ mẫu nhân hậu",...

Yếu tố biểu cảm còn được bộc lộ trực tiếp qua những từ ngữ có tính khẩu ngữ: lập tức, đùng một cái, đây, ấy thế mà,...

Yếu tố biểu cảm thể hiện bằng thái độ thẳng thắn chất vấn: Sao lại nướng họ ở miền xa xôi ấy? Tại sao có cảnh tốp thì bị xích tay? Phải chăng là... không ngần ngại? Chẳng phải... đó sao?

Yếu tố biểu cảm thể hiện trong sự tin tưởng: "Chúng tôi chắc rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà".

Yếu tố biểu cảm đã làm cho bài văn có sức tố cáo mạnh mẽ, thuyết phục.

III – THAM KHẢO

Tác phẩm mang tính đấu tranh mãnh liệt. Nó mở ra thời đại văn học chống chủ nghĩa thực dân. Trong tác phẩm, tác giả phê phán kịch liệt những "bài diễn thuyết" và "những cây bút đạo đức", "những ngài chuyên nghề khoác lác" nói về thuộc địa. Chủ nghĩa thực dân đã đào tạo được hàng loạt bồi bút hạng bét chuyên nghề ca ngợi bọn thực dân "khai hoá", ca ngợi việc chinh phục thuộc địa như "một sứ mệnh văn minh và nhân đạo", phỉ báng, xuyên tạc những dân tộc bị áp bức chỉ là "giống người hèn hạ", "Chúa sinh ra để đời đời làm nô lệ". Đó là một thứ sản phẩm bẩn thỉu bậc nhất của chủ nghĩa đế quốc. Hàng trăm tác phẩm, nào hồi kí, nào thư, nào tiểu thuyết, nào lịch sử, đã nói lên những điều vô liêm sỉ ấy. Một bọn nhà văn như Clốt Pha-re (Claude Franère) muốn xây dựng những "bản anh hùng ca" đẫm máu của chiến tranh xâm lược thuộc địa [...].

Năm 1925, Bản án chế độ thực dân Pháp của Hồ Chủ tịch đánh dấu bước ngoặt quyết định của văn học chống chủ nghĩa thực dân. "Văn học thuộc địa" bị một đòn đích đáng. Những ảo tưởng tiểu tư sản về "sự thâm nhập hoà bình và thân ái" vào các nước thuộc địa tiêu tan. Bản án... vạch cho mọi người thấy một thế giới hiện thực vô cùng tàn bạo. Từng bước, tác phẩm lật cái màn dối trá và hoa mĩ, phơi bày một cách bình tĩnh, khoa học, chính xác, những sự việc, những tài liệu chân thực của toàn bộ chế độ thực dân, lột trần cái bản chất thối tha của nó. Tất cả bọn thực dân gớm ghiếc, từ tên tổng trưởng thuộc địa, đến những tên toàn quyền, thống sứ, hay cai đoan, viên chức thực dân... lần lượt diễu trên sân khấu, đóng đủ mọi vai trò: khi là một con quỷ ghê tởm, khi là một thằng hề đáng khinh bỉ, khi là một kẻ đạo đức giả, một tên hung bạo, đứa côn đồ... Tóm lại, cái "tâm hồn thực dân" biểu hiện dưới con mắt nhân loại, cụ thể, chính xác, rất thực với bản chất của nó. [...]

Bản án chế độ thực dân Pháp là một tác phẩm văn học mang tính khoa học chính xác, đanh thép, khách quan. Đó là những tài liệu lấy trong hồ sơ của bọn thống trị, đó là những con số, những bản thống kê, những sự việc được báo chí tư bản thú nhận. Tóm lại, những bằng chứng cụ thể, chỉ rõ tên tuổi bọn "khai hoá" đầu sỏ trong lịch sử nhục nhã của chế độ thực dân Pháp, với niên hiệu rành rọt, nơi chốn rõ ràng. Tác giả đã phân tích, tổng hợp những tài liệu, rút ra những kết luận khái quát, tạo thành một "bản án" kết tội hùng hồn và kịch liệt.

Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, tác giả Bản án chế độ thực dân Pháp vẽ nên một bức tranh địa ngục đầy rẫy những cảnh bất nhân, bất nghĩa, những cảnh bất công phi lí, đầy phẫn nộ, những bức hoạ vẽ bằng máu và nước mắt của người dân mất nước. Những tên thực dân khát máu chỉ biết có đốt phá, chém giết, đầu độc, vơ vét. Gần suốt tác phẩm, ta nghe thấy những tiếng hò hét man rợ của chúng, tiếng roi vọt tàn nhẫn, tiếng bom đạn. Tác giả gọi những tên thực dân ấy là "bọn côn đồ", "bọn gian phi", "những tên bạo ngược", "bọn chó má", "quân ngu xuẩn và đểu cáng", được điểm trang bằng cái huy chương mục nát: Bác ái, Bình đẳng.

Hiểu rõ giai cấp công nhân, Bác Hồ biết tất cả nỗi khổ cực và sức mạnh của họ, những người duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Xuất thân từ một gia đình yêu nước, Bác thông cảm sâu sắc với nông dân. Hình ảnh người nông dân thuộc địa chiếm vai trò lớn trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp [..] Đề bạt người nông dân như một người bạn chiến đấu dũng cảm của giai cấp công nhân, đó là một sáng tạo trong văn học lúc bấy giờ. Qua hình tượng người nông dân trong tác phẩm, Hồ Chủ tịch chỉ rõ rằng vấn đề thuộc địa thực chất là vấn đề nông dân.

Nói đến họ, lời văn Bản án chế độ thực dân Pháp bao giờ cũng đầm ấm, thiết tha, Bác hiểu tấm lòng thương yêu quê hương đất nước của họ. Đàn cừu, mảnh vườn đối với họ là những gì thân thiết nhất: "Họ phải đột ngột lìa vợ, lìa con, bỏ đàn cừu, bỏ mảnh ruộng để vượt đại dương, đem xương phơi trên các bãi chiến trường châu Âu". Dù có sống sót, họ cũng chỉ lê "tấm thân tàn ma dại" trở về sống kiếp trâu ngựa dưới cái chế độ "không hề biết gì đến công lí và chính nghĩa".

(Theo Đỗ Đức Hiểu, Tạp chí Văn học, số 4 – 1971)