I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

Khi trình bày luận điểm trong đoạn văn, bài văn nghị luận, cần chú ý:

1. Nên sử dụng câu chủ đề để thể hiện luận điểm, vì câu chủ đề có một số điểm mạnh:

- Thể hiện được tư tưởng chính của cả đoạn văn.

- Đứng ở vị trí đầu đoạn văn (và đôi khi cuối đoạn) nên thu hút được sự chú ý của người đọc.

- Ngắn gọn, cô đọng nên dễ nhớ, dễ thuộc.

2. Muốn cho luận điểm nổi bật và đạt được tính thuyết phục, cần phải:

– Tìm đủ các luận cứ cho luận điểm.

- Phải tổ chức lập luận theo một trình tự hợp lí.

3. Phải diễn đạt trong sáng, lôi cuốn để sự trình bày được rõ ràng và có sức tác động mạnh tới người đọc, người nghe.

II- HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI

1. Phân tích hai đoạn văn:

-Câu chủ đề:

+ Đoạn 1: "Thật là chốn tụ hội trọng yếu ... đế vương muôn đời".

+ Đoạn 2: "Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước".

- Đoạn 1: câu chủ đề là câu kết đoạn.

- Đoạn 2: câu chủ đề là câu mở đoạn.

2. Đọc và phân tích đoạn văn:

a) Khái niệm lập luận: Lập luận là đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng nhằm dẫn dắt người đọc đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận mà người viết muốn đạt tới.

Trong đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng của đoạn trích trong tác phẩm Tắt đèn, khi Ngô Tất Tố miêu tả thái độ của vợ chồng Nghị Quế lúc chị Dậu mang ổ chó đến bán nhằm làm nổi bật bản chất "chó đểu" của giai cấp thống trị. Đó cũng chính là luận điểm của đoạn văn.

Tác giả đã sử dụng thủ pháp tương phản khi miêu tả hai thái độ hoàn toàn khác nhau của vợ chồng Nghị Quế: đối với đàn chó, hai vợ chồng xoắn xuýt, tỏ ra quan tâm, chiều chuộng bao nhiêu thì đối với mẹ con chị Dậu, chúng lại "đểu giả, chó má" bấy nhiêu. Cách xử sự "đểu giả" (coi chó như người, coi người như chó) của vợ chồng Nghị Quế đã bộc lộ bản chất chung của giai cấp thống trị.

b) Cách lập luận trên của tác giả đã làm nổi bật, sáng tỏ luận điểm chung. Đó là cách lập luận rất độc đáo và giàu ý nghĩa biểu hiện, làm cho luận điểm có sức thuyết phục cao.

c) Tính chất thuyết phục của luận điểm được nâng lên rất nhiều bởi cách sắp xếp các ý của tác giả. Cách đối xử với mẹ con chị Dậu của vợ chồng Nghị Quế thật khác xa những gì mà chúng đã biểu hiện với mấy con chó. Tưởng rằng thích những con chó như vậy, ít ra chúng cũng đối xử với người nuôi chó tử tế, nào ngờ... Nếu tác giả đưa nhận xét Nghị Quế "đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu" lên trên và đưa nhận xét "vợ chồng địa chủ cũng... thích chó, yêu gia súc" xuống dưới thì tuy cũng tạo ra được sự đối lập nhưng hiệu quả bất ngờ sẽ giảm đi rất nhiều.

d) Cách dùng từ của tác giả cũng đặc biệt sắc sảo. Những cụm từ đầy vẻ gai góc như chuyện chó con, giọng chó má, thằng nhà giàu rước chó vào nhà,... đã tạo nên chất giọng rất riêng, rất ấn tượng, qua đó làm cho sự trình bày luận điểm thêm chặt chẽ và hấp dẫn.

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Các câu văn có thể được viết lại thành luận điểm như sau:

a) Cần phải viết ngắn gọn, rõ ràng.

b) Nguyên Hồng không chỉ đam mê viết mà còn muốn truyền nghề cho các bạn trẻ.

2. Phân tích đoạn văn của Hoài Thanh:

- Luận điểm của đoạn văn được nêu ra ngay trong câu mở đầu "Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm". Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã trình bày các luận cứ:

+ Tế Hanh đã ghi được những nét rất thân tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương.

+ Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi với mỗi con người.

– Hai luận cứ trên được trình bày theo một trình tự hợp lí. Tác giả xuất phát từ những nhận định chính xác về Tế Hanh (một người rất tinh tế, có thể nghe thấy những điều không hình sắc, không thanh âm) đến những nhận định cũng rất chính xác về thơ Tế Hanh (đưa ta vào thế giới gần gũi mà ta chỉ cảm thấy một cách mờ mờ). Luận cứ thứ hai là hệ quả từ luận cứ thứ nhất. Điều đó tạo cho đoạn văn sự hợp lí và tính lô-gic.

3. Đối với các luận điểm được nêu ra, cần sử dụng các luận cứ cụ thể, sát hợp.

a) Học phải kết hợp làm bài tập thì mới hiểu bài

Có thể làm sáng tỏ luận điểm trên bằng các luận cứ sau:

– Học là để nắm bắt tri thức. Nắm bắt tri thức rất quan trọng nhưng củng cố những tri thức đã nắm bắt được còn quan trọng hơn.

Có thể lấy các dẫn chứng trong thực tế và trong học tập để chứng minh. Một người khi học lí thuyết có thể đạt kết quả cao nhưng anh ta không chú ý đến việc thực hành. Kết quả là những kiến thức thu nhận được nhanh chóng rơi rụng đi mất khiến cho khi tiếp xúc với công việc thực tế, anh ta đã hết sức vất vả.

- Việc làm bài tập đều đặn, thường xuyên là cách củng cố tri thức hiệu quả nhất.

Chứng minh: Với những người chăm chỉ làm bài tập, những kiến thức họ thu nhận được không những được củng cố mà còn được nâng cao, hoàn thiện hơn khi được tiếp xúc với thực tế vô cùng phong phú.

b) Học vẹt không phát triển được năng lực suy nghĩ

- Trước hết cần phải giải thích rõ: "Học vẹt" nghĩa là như thế nào?

"Học vẹt" nghĩa là chỉ nói theo như con vẹt, nói mà không hiểu mình đang nói cái gì. Nhiều người khi học chỉ có học thuộc lòng, không chú ý đến việc phân tích, khái quát. Kết quả là khi làm bài, anh ta có thể nói rất đúng ý thầy cô, được điểm rất cao nhưng kì thực là không hiểu được bản chất của vấn đề.

- Học vẹt làm cho trí não trở nên lười biếng.

Do không sử dụng tư duy phân tích, giải thích... nên các kĩ năng này của người học vẹt không được rèn luyện thường xuyên. Kết quả là khi tiếp xúc với thực tế, cần sử dụng các kĩ năng này một cách tích cực, họ đã gặp nhiều khó khăn.

4. Để làm sáng tỏ luận điểm: "Văn giải thích cần phải viết cho dễ hiểu", có thể đưa ra các luận cứ:

- Mục đích của văn giải thích là để giải thích cho người đọc hiểu rõ về một vấn đề nào đó.

- Nếu viết không dễ hiểu, người đọc từ chỗ khó tiếp nhận lời văn lại càng khó có thể hiểu được vấn đề người viết muốn trình bày.

- Bởi vậy, khi viết cần sử dụng lối viết rành mạch, giản dị, tránh dùng những từ ngữ quá cầu kì, những câu có cấu trúc phức tạp, cản trở quá trình tiếp nhận văn bản.

- Ngoài ra, khi viết cũng cần phải chú ý đến đối tượng tiếp nhận để sử dụng ngôn ngữ phù hợp thì mới đạt được hiệu quả cao.

Các luận cứ trên cần phải được trình bày theo một trình tự hợp lí. Từ giải thích khái niệm đến sử dụng thủ pháp nêu vấn đề, tiếp đó là đưa ra luận cứ chính, cuối cùng có thể sử dụng một luận cứ bổ sung để hoàn thiện luận điểm trên.