Câu 1. Hãy tóm tắt truyện, dựa vào mấy ý sau:
- Lí do cuộc họp làng chuột;
- Cảnh họp làng chuột lúc đầu và sáng kiến “đeo nhạc cho mèo”;
- Cảnh họp làng chuột lúc cử người “đeo nhạc cho mèo”.
- Kết quả việc cử người và thực hiện sáng kiến.
* - Xưa nay, loài chuột bị mèo giết hại đã nhiều. Chúng tức lắm, bèn họp nhau lại bàn cách để chống mèo.
- Cuộc họp của “làng dài răng” rất đông đủ. Chuột Cống đưa ra sáng kiến “đeo nhạc cho mèo” để khi mèo đến gần, chuột biết đường mà chạy trốn. Cả làng chuột đồng thanh ưng thuận sáng kiến ấy.
- Tìm được nhạc rồi, hội đồng chuột lại họp. Mọi người lao xao, hớn hở nhưng khi cử người đi “đeo nhạc vào cổ mèo” thì cả làng đùn đẩy nhau. Ông Cống có lí sự của ông Cống, anh Nhắt có lí sự của anh Nhắt. Cuối cùng, chuột Chù đầy tớ của làng đành phải nhận việc.
- Do nhút nhát nên vừa trông thấy mèo, chuột Chù đã cắm đầu chạy. Cả làng chuột cũng bỏ chạy tán loạn. Rút cuộc, chuột vẫn sợ mèo.
Câu 2. Cảnh họp làng chuột lúc đầu và lúc cử người “đeo nhạc cho mèo” rất đối lập nhau. Hãy chỉ ra và nêu ý nghĩa của những chi tiết đối lập ấy.
- Lúc đầu, cảnh họp làng chuột rất khí thế, có mặt đủ cả, từ người có “vai vế” cao nhất như ông Cống đến kẻ thấp hơn nhưng vẫn thuộc hàng “chiếu trên” như anh Nhắt, rồi tới đầy tớ làng như anh Chù. Tất cả đều thán phục và đồng thanh ưng thuận sáng kiến “đeo nhạc cho mèo” của Cống, hớn hở nghĩ đến ngày chuột không còn bị mèo làm hại.
- Lúc cử người đi “đeo nhạc cho mèo” thì cả làng chuột im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Không khí nặng nề, sợ hãi bao trùm. Không ai dám nhận công việc nguy hiểm ấy nên sự phân công thành chuyện đùn đẩy, né tránh, bắt ép kẻ dưới.
* Ý nghĩa : Những chi tiết đối lập ấy chứng tỏ sự bốc đồng và hèn nhát của hội đồng chuột, hăng hái đưa ra những sáng kiến viển vông mà không kẻ nào có đủ can đảm để thực hiện. Vì thế, mà sáng kiến hoá thành “tối kiến”.
Câu 3. Em có nhận xét gì việc tả các loại chuột trong truyện. Phải chăng mỗi loại chuột ám chỉ một loại người nào đó trong xã hội cũ?
a. Việc tả các loại chuột trong truyện rất sinh động, đặc sắc:
- Trước hết là tả khái quát các loại chuột: Làng chuột được gọi là làng dài răng (tả rất đúng đặc điểm về mặt sinh học cũng như bản chất phá hoại của loài chuột). Khi đồng thanh ưng thuận sáng kiến của chuột Cống, cả làng chuột phấn chấn dẩu mõm, quật đuôi. Lúc sợ hãi thì cả hội đồng im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Tai không nhích vì giả vờ như... chưa nghe thấy gì; răng không nhe vì... sợ phải lên tiếng, sợ bị chú ý.
- Tả “vai” nào ra “vai” ấy bằng cách gọi từng loại chuột theo tên gọi dân gian của chúng, kết hợp với những câu ví cùng với lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa (ông Cống, chuột Cống).
b. Từng loại chuột tương ứng với từng loại người bị ám chỉ (từ tên gọi đến bộ dạng, hành động, ngôn ngữ, tính cách). Ông Cống là bậc vai vế trong làng (lí trưởng) có quyền xướng việc và sai khiến. Chú Nhắt tuy bé cũng là bậc đàn anh (địa chủ, lính lệ) lại là người nhanh nhảu, láu lỉnh. Anh Chù thân phận thấp kém (mõ làng, cùng đinh) chỉ để cho làng sai vặt và phải nhận những việc khó khăn, nguy hiểm.
Câu 4. Trong cuộc họp của làng chuột, ai có quyền xướng việc và sai khiến? Ai phải nghe theo và nhận những việc khó khăn, nguy hiểm?
Cuộc họp của làng chuột chẳng khác gì cuộc họp của hội đồng làng xã ở nông thôn Việt Nam thời phong kiến.
- Quyền xướng việc, sai bảo thuộc về các vị tai to mặt lớn, có vai vế, quyền lực trong làng (ông Cống). Khi các vị đã phán, dù là chuyện viển vông thì dân cũng chỉ biết phục là chí lí và đồng thanh ưng thuận, có nghĩa là nhất nhất phải nghe theo.
- Những việc khó khăn, nguy hiểm cuối cùng đều đùn đẩy cho những đầy tớ của làng (anh Chù). Họ không được nói, không biết cãi ra sao, đành phải nhận.
- Truyện ngầm phê phán những cuộc họp bàn việc làng của hội đồng làng xã thời phong kiến. Những điều đưa ra bàn bạc thường viển vông, hão huyền. Những kẻ tai to mặt lớn trong làng phần lớn đạo đức giả, ham sống sợ chết, thường trút khó khăn, nguy hiểm cho người dân thấp cổ bé họng. Đó cũng chính là ý nghĩa của thành ngữ hội đồng chuột mà dân gian thường sử dụng với ý mỉa mai.
Câu 5. Mục đích chính của truyện ngụ ngôn là khuyên nhủ, răn dạy con người ta bài học nào đó trong cuộc sống. Truyện Đeo nhạc cho mèo đưa ra bài học gì?
a. Truyện phê phán những ý tưởng vu vơ, hão huyền; những hành động phiêu lưu mạo hiểm không bao giờ thực hiện được. Sáng kiến của chuột Cống mới nghe qua có vẻ hay ho và được cả làng chuột đồng thanh ưng thuận nhưng rốt cuộc không giải quyết được việc gì. Làm sao chuột lại có thể đeo nhạc cho mèo khi từ trước đến nay, chưa trông thấy mèo, chỉ mới nghe thấy tiếng kêu chuột đã sợ chết khiếp?!
b. Bài học mà truyện đặt ra nhắc nhở chúng ta tính thực tiễn, tính khả thi trong dự định và kế hoạch về một điều cụ thể nào đó.
- Phê phán những đại diện chóp bu của xã hội phong kiến cũ, những kẻ đạo đức giả thường đùn đẩy và bắt ép kẻ dưới phải nhận những việc khó khăn, nguy hiểm.
Câu 6. Phân tích, đánh giá tính cách chuột Cống.
* Tham khảo bài viết dưới đây:
Đeo nhạc cho mèo là một chuyện ngụ ngôn hài hước, thú vị. Truyện kể về cuộc họp lạ lùng của làng chuột để bàn cách chống mèo. Chuột Cống nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu, chuột sẽ biết trước mà tránh. Cả họ nhà chuột đồng tình với sáng kiến đó nhưng không ai dám nhận việc đeo nhạc vào cổ mèo. Cuối cùng, làng ép chuột Chù thực hiện. Vốn nhát gan, vừa trông thấy mèo chuột Chù đã hoảng sợ bỏ chạy.
Truyện có nhiều nhân vật, nhưng nổi bật nhất là chuột Cống - đại diện cho những kẻ tinh ranh, láu cá, hay ra vẻ ta đây nhưng thực chất chỉ biết nói mà không biết làm, ham sống sợ chết.
Chuột Cống được giới thiệu hết sức trịnh trọng về hình dáng bên ngoài cũng như chức vụ: Ông Cống rung rinh béo tốt, quan trường lại chấm cho ở trên ông Đồ,... Trong làng chuột, chuột Cống là bề trên luôn ngồi ở chiếu trên.
Khi làng chuột đã họp mặt đầy đủ, chuột Cống mới lên tiếng rằng: Cái giống quái kia sở dĩ nó chụp được anh em mình chỉ vì trời phú cho nó cái tài rình mò và khéo bắt lén mà thôi. Bây giờ, bà con ta nên mua một cái nhạc buộc vào cổ nó, để khi nào nó đến, nghe tiếng nhạc, ta biết đường chạy trước, thì nó còn làm gì nổi ta nữa.
Chuột Cống nêu nguyên nhân vì sao mèo hại được chuột (nguyên nhân này thì ai chẳng biết); rồi đưa ra cách giải quyết thật nhẹ nhàng và khẳng định là mèo không còn làm gì nổi loài chuột nữa. Giọng điệu của chuột Cống vừa có vẻ coi thường, không sợ mèo, vừa tỏ ra nó không biết lượng sức mình và không hiểu hết về đối thủ. Tuy nhiên, mới nghe qua, làng chuột thấy rất hợp lí.
Khi săn mồi, mèo thường rình rất kín đáo và vồ quá nhanh nên chuột không sao tránh kịp. Bây giờ đeo nhạc (lục lạc) vào cổ mèo thì mèo đi đến đâu, tiếng nhạc sẽ vang lên đến đấy, báo cho chuột biết đường mà trốn cho kĩ. Ý kiến của chuột Cống hay ho tới mức xua tan được nỗi sợ hãi cố hữu và khơi dậy niềm hi vọng thoát khỏi nanh vuốt của mèo, khiến cả làng chuột nghe nói, dẩu mõm, quật đuôi, đều lấy làm phục cái câu chí lí của ông Cống và đồng thanh ưng thuận.
Vậy là sáng kiến của chuột Cống đã được tán đồng, nhạc cũng đã kiếm được rồi, hội đồng chuột bàn bạc để cử kẻ đi đeo nhạc cho mèo.
Nực cười thay, lúc hội đồng chuột hỏi ai dám đem nhạc đeo vào cổ mèo, tức là thực hiện cái sáng kiến tuyệt vời của chuột Cống thì cả hội đồng im phăng phắc. Không ai tự nguyện nhận công việc vô cùng nguy hiểm đến tính mạng nên làng chuột đành cử ông Cống phải đi, vì chính ông Cống đã xướng lên cái thuyết đeo nhạc ấy. Làng chuột cho rằng chuột Cống nói được ắt phải có cách làm được.
Đây là điều hoàn toàn bất ngờ với chuột Cống vì nó cho rằng mình chỉ đưa ra cách chống mèo thôi, còn thực hiện phải là kẻ khác. Đến lúc này, chuột Cống chợt tỉnh ngộ vì thấy công việc ấy quá nguy hiểm, cận kề cái chết. Cho nên nghe vậy, Cống ta trong lòng tuy nao (lo sợ), mà ngoài mặt làm ra bộ bệ vệ kẻ cả, nói rằng: Tôi đây, chẳng gì nhờ tổ ấm cũng được vào bậc ông Cống, ông Nghè, ăn trên ngồi trước trong làng, có đâu làng lại cắt tôi đi làm cái việc tầm thường ấy được! Trong làng ta nào có thiếu chi người! Tôi xin cử anh Nhắt, anh ấy nhanh nhảu chắc làm được việc.
Chuột Cống tinh ranh vin ngay vào chức vị bề trên của mình, nêu ra sự bất xứng giữa chức vị ấy với công việc tầm thường là đeo nhạc vào cổ mèo và vội vàng đùn đẩy phần nguy hiểm sang cho kẻ khác (đề cử chuột Nhắt). Đáng cười ở chỗ lúc nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo, chuột Cống cho đây là đại sự (việc lớn), đến lúc bị làng cắt cử phải làm, chuột Cống lại từ chối khéo với lí do đó là việc tầm thường, không xứng với địa vị, chức tước, tài năng của mình.
Chuột Nhắt vốn láu cá. Nó chẳng dại gì lao đầu vào chỗ chết nên cãi lí rằng: Làng cắt tôi đi, tôi cũng xin vâng, không dám chối từ. Nhưng tôi, dù bé vậy, mà cũng còn ở chiếu trên, chưa đến nỗi nào. Ông Cống không đi, phải; tôi đây không đi, cũng phải. Để xin cắt anh Chù, anh ấy tuy chậm, nhưng chắc chắn, làng không lo hỏng việc. Chuột Nhắt khôn ở chỗ lấy ngay cái lí do của chuột Cống làm lí do của mình (xét địa vị trong làng chuột), khẳng định mình không phải làm vì còn ở chiếu trên, tức là chưa phải hạng cùng đinh. Đồng thời chuột Nhắt nhanh nhảu tiến cử ngay chuột Chù là kẻ bị khinh rẻ nhất trong làng chuột.
Chuột Chù thấp cổ bé miệng, không biết cãi sao đành chấp nhận nhưng cũng không khỏi lo lắng: Tôi là đầy tớ làng, làng sai tôi đi là phải lắm. Nhưng tôi chỉ sợ, nếu tôi đến gần mèo mà mèo thịt tôi đi, thì rồi lấy ai thay tôi mà buộc nhạc được nữa. Câu nói thật thà của Chù đã được chuột Cống chớp nhanh chẳng kém gì mèo vồ chuột: Mèo nó có vờn là vờn chúng tao, vờn cái anh Nhắt kia, chớ chú mày hôi hám như thế, thì nó bắt mà thèm vào. Thôi cứ nhận đi ngay đi, không được nói lôi thôi gì nữa.
Lời lẽ của chuột Cống vừa thể hiện “cái oai” của kẻ trên ép kẻ dưới, đồng thời cũng thể hiện sự hèn nhát, né tránh của kẻ có quyền, có thế. Cuối cùng, kẻ có địa vị thấp kém nhất thường phải làm những công việc vất vả và nguy hiểm nhất. Chuyện làng chuột mà y như chuyện hội đồng làng xã ngày xưa.
Thế là chuột Chù ì ạch phải nhận, vác nhạc ra đi tìm mèo thật. Tuy mèo không ăn thịt nhưng cũng nhe nanh giương vuốt doạ dẫm khiến Chù chết khiếp, vội vã quăng lục lạc rồi cắm đầu chạy trốn. Cả làng chuột tan tác, thế là chuột vốn sợ mèo vẫn hoàn sợ mèo.
Thông qua nhân vật chuột Cống, truyện ngụ ngôn trên khuyên nhủ mọi người luôn phải cân nhắc đến điều kiện và khả năng thực hiện khi dự định làm một công việc nào đó. Truyện còn phê phán những ý tưởng viển vông, hão huyền, những kẻ ham sống sợ chết, chỉ bàn suông mà không dám hành động, trút công việc khó khăn nguy hiểm cho những người dưới quyền. Cốt truyện và tính cách nhân vật tuy đơn giản nhưng ý nghĩa xã hội thật sâu sắc.