I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Nêu xuất xứ của đoạn trích: Đây là đoạn kế tiếp đoạn kể về chuyện Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà. Tú Bà ép Kiều tiếp khách làng chơi. Kiều không chấp nhận nên bị Tú Bà đánh đập. Tủi nhục, Kiều tự sát. Tú Bà sợ mất món lợi lớn đành cho Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng.

- Đoạn trích này phản ánh tâm trạng thương nhớ gia đình, thương nhớ người yêu và xót xa buồn tủi cho thân phận mình của Thuý Kiều.

2. Thân bài:

* Đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động:

+ Bức tranh phong cảnh được nhìn qua con mắt đầy tâm trạng của Kiều:

- Đường nét vừa thực vừa ảo: vẻ non xa, tấm trăng gần, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia... Không gian mênh mông, lạnh lẽo, bao phủ bởi một nỗi buồn thấm thía.

- Con người: chỉ có một - đó là Thuý Kiều lẻ loi, cô độc giữa không gian hoang vắng.

+ Bức tranh tâm tình đầy xúc động:

- Phong cảnh thiên nhiên được nhìn qua con mắt u sầu của Kiều nên cũng đượm buồn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

- Sự vật nào cũng gợi cảm giác chông chênh, bất định và chứa đựng một dự báo chẳng lành:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu...

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

+ Tâm trạng nàng Kiều trước cảnh ngộ bị giam hãm ở lầu Ngưng Bích:

- Đó là tâm trạng tủi hổ vì số phận trớ trêu, éo le của mình.

- Cô độc và buồn bã, nặng trĩu nhớ thương (nhớ người yêu, đau khổ vì mối tình tan vỡ; xót thương cha già mẹ yếu mòn mỏi đợi trông con, băn khoăn không biết lấy ai thay mình phụng dưỡng mẹ cha; nhớ tổ ấm gia đình...)

- Những cảm xúc ấy càng trỗi dậy da diết, mãnh liệt trong tình cảnh Thuý Kiều bị vây bủa giữa những thế lực hắc ám, giữa sự cô đơn, bất lực và tuyệt vọng.

- Tình cảm cao đẹp của Thuý Kiều cùng với cảnh ngộ éo le của nàng khiến người đọc thương xót sâu xa. Càng thương Kiều, chúng ta càng căm giận cái xã hội độc ác, vô nhân đạo đã đẩy nàng vào cảnh ngộ đó.

- Thái độ của nhà thơ: xót xa, chia sẻ nỗi đau với Thuý Kiều.

3. Kết bài:

- Khẳng định giá trị của đoạn thơ: là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.

- Tài năng kiệt xuất của Nguyễn Du được chứng minh qua nghệ thuật tả cảnh, tả tình, tạo nên sự đồng cảm thật sự giữa người đọc và nhân vật.

II. BÀI LÀM

Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, Thuý Kiều rơi vào nanh vuốt của mụ Tú Bà, chủ một lầu xanh. Hiểu ra tình cảnh nhục nhã, éo le của mình, Kiều đã quyên sinh. Sợ bị mất cả vốn lẫn lời, Tú Bà hoảng hốt vội cứu sống Kiều, tạm đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích và hứa sẽ kiếm cho nàng một tấm chồng tử tế. Những ngày này, Kiều sống trong tâm trạng buồn bã, đớn đau. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh Kiều ở lầu Ngưng Bích thành một bức tranh tâm tình đầy xúc động:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

...

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Đoạn trích trên phản ảnh tâm trạng buồn tủi, thương nhớ người yêu, thương nhớ cha mẹ và xót xa cho thân phận cay đắng của Thuý Kiều. Nó chứng minh cho nhận xét: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của thi hào Nguyễn Du. Thiên nhiên ở đây bị bao phủ trong một nỗi buồn trĩu nặng bởi Thuý Kiều nhìn cảnh bằng cặp mắt u uất, đau thương. Nỗi buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật và cảnh vật hoang vắng, đìu hiu càng gợi mối sầu trong lòng người con gái bất hạnh.

Đang được sống trong không khí êm ấm, đùm bọc của gia đình; đang say sưa hạnh phúc với mối tình đầu ngọt ngào, trong sáng, Thuý Kiều bỗng dưng bị rơi vào cạm bẫy của cuộc đời. Nàng bị lừa gạt trắng trợn, bị đánh đập dã man, bị xúc phạm đến phẩm hạnh. Bao tai hoạ dồn dập đến với nàng chỉ trong một thời gian quá ngắn. Cả thể xác lẫn tâm hồn nàng bị những thế lực đen tối giày xéo, chà đạp không thương tiếc. Giờ đây, một mình ngồi trước lầu Ngưng Bích, giữa chốn đất khách quê người, Kiều hoàn toàn cô đơn, không một người thân thích để chia sẻ tâm sự đau thương. Bởi vậy, nỗi buồn đau càng lớn, càng sâu. Thuý Kiều chỉ còn biết san sẻ nỗi lòng cùng cảnh vật quanh nàng.

Trong sáu câu thơ đầu, tác giả tả khung cảnh quanh lầu Ngưng Bích bằng những nét chấm phá tài tình: Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung, Bốn bề bát ngát, xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo. Nguyễn Du đã mượn cảnh để nói lên tâm trạng Thuý Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Cha mẹ, các em, người yêu... tất cả đã xa xôi, cách biệt trùng trùng. Sống giữa một lũ mặt người dạ thú như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh... Kiều, chẳng khác gì một con cừu non giữa bầy lang sói. Có ai hiểu nỗi lòng nàng trong cảnh huống này? Nhìn một dáng núi xa, ngắm một vầng trăng gần, nàng cảm thấy đó là bè bạn. Nhưng những người bạn không lời này đâu có an ủi, chia sẻ được nỗi buồn đang chất ngất trong lòng nàng? Bởi thế, nỗi buồn không thể nào vơi.

Dõi tầm mắt ra bốn phương, tám hướng, không hướng nào loé lên được một chút vui:

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Không một bóng người trên một vùng đất mênh mông, hoang vắng. Ướm vào thân phận, Kiều thấy mình nào có khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi. Giữa người với cảnh vừa có nét tương phản, vừa có nét tương đồng. Nỗi buồn của Kiều dường như cũng lan toả đến vô cùng như không gian vô tận trước mắt nàng. Càng cảm thương cho thân phận, cõi lòng nàng càng tan nát:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Cảnh buồn thì hay gợi nhớ. Kiều lặng lẽ, âm thầm gạt lệ khi hồi tưởng về bao điều tốt đẹp này đã thành quá khứ. Nàng da diết nhớ người yêu cùng với mối tình đầu mãnh liệt và trong sáng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Hình ảnh hai người cùng uống chén rượu thề trăm năm gắn bó đêm nào dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời giờ vẫn còn đậm nét, tươi nguyên trong kí ức nàng.

Nàng thương chàng Kim giờ này đang sốt ruột trông chờ tin tức người yêu. Nghĩ về cha mẹ, lòng Kiều càng xót xa, đau đớn:

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Giờ nàng đã đi xa biền biệt, lấy ai chăm sóc mẹ cha? Tuy đã cố dứt chữ tình để đáp đền chữ hiếu nhưng nàng vẫn không khỏi băn khoăn, thổn thức khi nghĩ đến cảnh cha già mẹ yếu, mòn mỏi đợi mong con trong vô vọng. Điều đó càng khẳng định nàng là người con hiếu thảo.

Mang một tâm trạng như thế nên Kiều nhìn đâu cũng chỉ thấy buồn:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bốn lần, từ buồn trông được nhắc lại; mỗi lần mở đầu cho một cảnh. Kiểu kết cấu lặp này gây ấn tượng mạnh về nỗi buồn sâu sắc của Kiều. Tám câu thơ, bốn bức tranh phong cảnh nhỏ trong một bức tranh phong cảnh - tâm tình rộng lớn. Bức thứ nhất: cửa bể chiều hôm mênh mông màu xám bạc. Trên cái nền ấy nổi lên một cánh buồm đơn độc, thấp thoáng ẩn hiện, không biết về phương trời nào. Bức thứ hai: ngọn nước mới sa (nước đổ từ trên cao xuống), cuốn theo những cánh hoa bị sóng gió dập vùi, đẩy đưa vào cõi vô định. Bức thứ ba: nội cỏ rầu rầu, héo úa, không còn sức sống. Bức thứ tư: gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng...

Chúng ta bắt gặp ở đây bút pháp quen thuộc của Nguyễn Du. Cảnh vật chỉ mang tính ước lệ nhưng phản ánh rõ tình người, cụ thể là nỗi buồn không giới hạn của Kiều. Mỗi cảnh ngụ một ý, tăng dần lên theo suy nghĩ và mặc cảm về thân phận con người: lẻ loi, cô độc, trôi nổi, dập vùi, héo tàn và linh tính báo trước về một tương lai đen tối đầy bão tố.

Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, thi hào Nguyễn Du tỏ ra rất xuất sắc trong việc tả cảnh và tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của Thuý Kiều, khiến người đọc thực sự xúc động, xót xa cho số phận bất hạnh của người con gái tài sắc ấy. Cảnh và tình đan xen, hoà quyện, bổ sung ý nghĩa cho nhau, làm nổi bật chủ đề của đoạn trích. Có thể nói đây là một trong những đoạn thơ hay nhất của Truyện Kiều.