I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ mù nổi tiếng cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm chứa chan tình cảm yêu nước, thương dân, căm thù thực dân Pháp xâm lược.

- Sự gắn bó sâu xa với quần chúng là đặc điểm nổi bật trong cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu, là nhân tố chủ yếu đào tạo nên con người và sự nghiệp thơ văn của ông.

2. Thân bài:

* Giới thiệu về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu.

+ Nguyễn Đình Chiểu có ý chí, khát vọng vươn lên, khát vọng cống hiến rất mãnh liệt:

- Nhà thơ gửi gắm lí tưởng của mình vào nhân vật Lục Vân Tiên hăm hở bước vào đời với lí tưởng giúp dân, giúp nước:

Làm trai trong cõi người ta,

Trước lo báo bổ sau là hiển vang.

- Bất hạnh ập đến với Nguyễn Đình Chiểu rất sớm: mẹ mất, con đường công danh lỡ dở, bản thân lâm vào cảnh mù loà, tình duyên đứt đoạn...

- Sống trong thời buổi loạn li, ông phải cùng gia đình lao đao chạy giặc.

- Nguyễn Đình Chiểu không gục ngã trước số phận bất hạnh. Ông vẫn ngẩng cao đầu, đem hết tài đức cống hiến cho dân, cho nước. Cùng một lúc, ông làm tròn ba trọng trách: thầy giáo, thầy thuốc và nhà thơ.

- Ông sống trong sạch, giàu nhân nghĩa giữa tình yêu thương, mến phục của đồng bào Lục tỉnh Nam Kì và sự nể trọng của kẻ thù. Tuy mù loà nhưng ông đã để lại cho đời những sáng tác văn chương bất hủ, được lưu truyền rộng rãi như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh...

+ Truyện thơ Lục Vân Tiên:

- Hoàn cảnh sáng tác: Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên vào giữa thế kỉ XIX. Sau đó, truyện được lưu truyền rộng rãi trong dân gian dưới các hình thức kể thơ Vân Tiên, nói thơ Vân Tiên, hát Vân Tiên...

- Nội dung gồm bốn phần: Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga; Lục Vân Tiên gặp nạn và được cứu giúp; Kiều Nguyệt Nga gặp nạn mà vẫn giữ trọn lòng chung thuỷ; Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp lại nhau. Truyện có cấu trúc theo kiểu chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời của các nhân vật chính.

- Mục đích của nhà thơ khi viết truyện này là để truyền dạy đạo lí làm người: Coi trọng tình nghĩa cha con, vợ chồng, bè bạn. Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, thể hiện khát vọng công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành, chính nghĩa thắng gian tà...

- Về đặc điểm nghệ thuật, tác phẩm Lục Vân Tiên chủ yếu dùng để kể hơn là để đọc nên tác giả chú trọng đến việc miêu tả hành động của nhân vật hơn là diễn biến nội tâm. Tính cách nhân vật bộc lộ qua ngôn ngữ, cử chỉ. Thái độ yêu ghét của tác giả thể hiện rất rõ ràng qua cách miêu tả. Tác giả sử dụng lời ăn tiếng nói tự nhiên, mộc mạc của quần chúng nên tác phẩm dễ đi sâu vào lòng người.

3. Kết bài:

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương lưu danh muôn thuở.

- Những lí tưởng, khát vọng cao đẹp của bản thân đã được nhà thơ gửi gắm vào nhân vật Lục Vân Tiên, cho nên có ý kiến cho rằng truyện thơ Lục Vân Tiên có tính chất tự truyện. Tuy vậy, phần tưởng tượng và sáng tạo của Nguyễn Đình Chiểu là rất đáng trân trọng. Tác phẩm có sức sống mạnh mẽ, lâu bền trong lòng nhân dân Nam Bộ.

II. BÀI LÀM

Nguyễn Đình Chiểu có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống và khát khao cống hiến cho đời rất mãnh liệt. Ở tuổi đôi mươi, ông hăm hở và đầy khát vọng như chàng trai Lục Vân Tiên buổi lên kinh ứng thí:

Chí lăm bắn nhạn ven mây,

Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa.

Làm trai trong cõi người ta,

Trước lo báo bổ, sau là hiển vang.

Nhưng bất hạnh đã dồn dập ập đến: mới mười sáu tuổi mà ông đã lâm vào cảnh đui mù, tàn tật. Thế là đường công danh nghẽn lối, tình duyên đứt đoạn. Ông lần tìm về đến quê nhà thì lại gặp buổi loạn li. Tiếp đó là những ngày cùng gia đình lao đao chạy giặc. Ông căm uất trước cảnh giang sơn bốn chia năm xé, đau lòng trước tình cảnh khốn khó, lầm than của dân chúng. Bão táp cuộc đời không ngừng vùi dập, xô đẩy nhưng Nguyễn Đình Chiểu không gục ngã trước số phận. Ông vẫn ngẩng cao đầu mà sống có ích cho dân, cho nước đến hơi thở cuối cùng.

Nguyễn Đình Chiểu can đảm ghé vai gánh vác một lúc cả ba trọng trách của thầy giáo, thầy thuốc và nhà thơ. Ở cương vị nào ông cũng cống hiến hết mình và nêu gương sáng cho đời. Là một thầy giáo, danh tiếng cụ Đồ Chiểu vang khắp Lục tỉnh Nam Kì. Một hình ảnh cảm động còn lưu truyền mãi trong dân gian là khi ông mất, cả cánh đồng Ba Tri rợp trắng khăn tang của các thế hệ học trò và của những người dân mến mộ tài đức của ông.

Là một thầy thuốc, ông không tiếc công sức cứu nhân độ thế:

Giúp đời chẳng vụ tiếng danh,

Chẳng màng của lợi, chẳng ganh ghẻ tài.

(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)

Là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời bao trang thơ bất hủ, được lưu truyền rộng rãi như Truyện Lục Vân Tiên, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư Tiều y thuật vấn đáp...

Nguyễn Đình Chiểu có lòng yêu nước thiết tha và tinh thần bất khuất hiếm có. Mặc dầu mù loà, bệnh tật, gia cảnh thanh bần, nhưng ngay từ những ngày đầu đụng độ với giặc ngoại xâm, ông đã kiên quyết giữ vững lập trường của mình. Ông làm quân sư cho các lãnh tụ nghĩa quân, đồng thời sáng tác thơ văn để khích lệ tinh thần chiến đấu của nghĩa sĩ. Khi cả Lục tỉnh Nam Kì đã rơi vào tay giặc, ông lánh về sống ở Ba Tri (Bến Tre), nêu cao khi tiết của con người thua cuộc mà lưng vẫn thẳng, đầu vẫn ngẩng cao, ngay kẻ thù cũng phải kính nể. Ông sống nghĩa khí, trong sạch giữa tình yêu thương, kính trọng của đồng bào và Trọn đời một tấm lòng son.

* Truyện Lục Vân Tiên gồm bốn phần. Tóm tắt nội dung như sau:

PHẦN THỨ NHẤT: Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.

Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, chứng kiến bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, chàng đã nổi giận lôi đình, một mình đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga. Cảm ân đức ấy, Nguyệt Nga đã tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự tay vẽ bức hình chàng. Còn Vân Tiên làm xong việc nghĩa, thanh thản ra đi, gặp gỡ và kết bạn với Hớn Minh cũng đang trên đường tới kinh đô ứng thí.

PHẦN THỨ HAI: Lục Vân Tiên gặp nạn và được cứu giúp.

Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường, tiện thể ghé thăm Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực. Tới kinh đô, chàng gặp một số sĩ tử khác là Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Suốt đường về, Vân Tiên khóc nhiều nên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ông Ngư cưu mang. Sau đó, chàng lại bị cha con Võ Công hãm hại, đem bỏ vào hang núi Thương Tòng. Được Sơn thần và ông Tiêu cứu ra, Vân Tiên may mắn gặp lại bạn hiền là Hớn Minh, vì trừng trị cậu công tử con quan ỷ thế làm càn mà phải bỏ thi, sống lẩn lút trong rừng. Hớn Minh đón bạn về nương náu ở nơi am vắng. Khoa thi năm ấy, Tử Trực đỗ thủ khoa, đến nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngỏ ý muốn gả con gái cho, liền bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt là đồ vô sỉ. Võ Công hổ thẹn rồi ốm mà chết.

PHẦN THỨ BA: Kiều Nguyệt Nga gặp nạn mà vẫn giữ lòng chung thuỷ.

Khi nghe tin Lục Vân Tiên đã chết trên đường trở về quê nhà, Kiều Nguyệt Nga rất đau khổ và thề sẽ thủ tiết suốt đời. Tên Thái sư đương triều ép hỏi nàng làm vợ cho con trai mình không được, nên đem lòng thù oán, tâu vua bắt Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua để tránh nạn binh đao. Thuyền vừa tới biên giới, Nguyệt Nga mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đã cứu và đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm con trai ông ta lại khăng khăng đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng sống nhờ ở nhà một bà lão dệt vải.

PHẦN THỨ TƯ: Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp lại nhau.

Lục Vân Tiên ở với Hớn Minh, được Tiên ông cho thuốc thần, mắt sáng lại, liền trở về nhà thăm cha và viếng mộ mẹ. Đến khoa thi sau, chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh làm phó tướng cho chàng. Đánh tan giặc, Vân Tiên bị lạc trong rừng sâu, tình cờ đến nhà bà lão hỏi thăm đường và gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu bày hết sự tình với đức vua. Cuối cùng, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp. Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc bên nhau.

Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, được lưu truyền rộng rãi dưới các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian như kể thơ, nói thơ Vân Tiên, hát Vân Tiên ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Vì tái bản nhiều lần nên truyện có nhiều dị bản, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, thì truyện có tới 2082 câu thơ lục bát. Truyện có cấu trúc theo kiểu chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời của các nhân vật chính.

Mục đích của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu khi viết truyện này là để truyền dạy đạo lí làm người:

Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,

Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.

Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

Đạo lí đó có thể thâu tóm ở mấy điểm sau:

Thứ nhất: Coi trọng tình nghĩa giữa người với người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn.

Thứ hai: Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò cậu công tử con quan cậy thế cha làm bậy).

Thứ ba: Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời qua kết thúc có hậu của truyện là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.

Vào thời Nguyễn Đình Chiểu sống, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kỉ cương lỏng lẻo, đạo đức suy vi, xã hội nhiễu nhương... Cho nên, một tác phẩm như Lục Vân Tiên đã đáp ứng đầy đủ nguyện vọng và ước mơ công lí của nhân dân. Cũng bởi thế mà sau khi ra đời, truyện đã được nhân dân Nam Bộ nồng nhiệt tiếp nhận.

Về đặc điểm nghệ thuật, Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm chủ yếu dùng để kể hơn là để đọc nên chú trọng đến hành động của nhân vật nhiều hơn là miêu tả nội tâm, do đó tính cách nhân vật thường bộc lộ qua việc làm, lời nói, cử chỉ. Thái độ ca ngợi hay phê phán của tác giả đều thể hiện qua cách miêu tả nhân vật.

Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm có sức sống mạnh mẽ và lâu bền trong lòng công chúng, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ. Ngay từ năm 1864, tức là chỉ mười năm sau khi tác phẩm ra đời, một người Pháp đã dịch tác phẩm này ra tiếng Pháp. Điều thôi thúc ông ta làm việc đó chính là hiện tượng đặc biệt mà ông ta được chứng kiến: Ở Nam Kì Lục tỉnh, có lẽ không có một người chài lưới hay người lái đò nào lại không ngâm nga vài ba câu (Lục Vân Tiên) trong khi đưa đẩy mái chèo. Ông ta đánh giá tác phẩm Lục Vân Tiên như là một trong những sản phẩm hiếm có của trí tuệ con người, có cái ưu điểm lớn là diễn tả được trung thực những tình cảm của cả một dân tộc.

Có ý kiến cho rằng tác phẩm Lục Vân Tiên có tính chất tự truyện. Giữa tiểu sử của tác giả và nhân vật Lục Vân Tiên có những nét tương đồng, trùng hợp như việc bỏ thi về nhà chịu tang, đau mắt và bị mù, bị bội hôn, về sau gặp được một cuộc hôn nhân tốt đẹp...

Tuy vậy vẫn có những khác biệt: Lục Vân Tiên được Tiên ông cho thuốc, mắt lại sáng, tiếp tục đi thi, đỗ Trạng nguyên và cầm quân đánh giặc thắng lợi. Còn với Nguyễn Đình Chiểu thì vĩnh viễn là bóng tối. Sự khác biệt đó nói lên ước mơ và khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu mà ông chỉ có thể gửi gắm nó qua nhân vật lí tưởng của mình.