I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Nguyễn Duy là nhà thơ quân đội, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

- Thơ anh đậm đà tính dân tộc, tính trữ tình, đi sâu phản ánh đời sống tình cảm phong phú của con người Việt Nam.

- Bài thơ Ánh trăng sáng tác năm 1978, ba năm sau hoà bình, thống nhất đất nước. Nội dung chứa đựng sự suy ngẫm, tư vấn lương tâm của nhà thơ, đồng thời cũng là lời nhắc nhở mọi người đừng vội quên quá khứ nặng nghĩa nặng tình.

2. Thân bài:

* Phân tích:

+ Hình ảnh vầng trăng trong quá khứ.

- Gắn liền với tuổi ấu thơ nơi quê nhà, với đời lính nơi chiến trường gian khổ: Hồi nhỏ sống với đồng, với sông rổi với bể, hồi chiến tranh ở rừng, vầng trăng thành tri kỉ... ngỡ không bao giờ quên, cái vầng trăng tình nghĩa.

- Vầng trăng như có tâm hồn, thấu hiểu tâm trạng và chia sẻ vui buồn với con người.

+ Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại.

- Bị lãng quên giữa cuộc sống bon chen chốn thị thành: Từ hồi về thành phố, quen ánh điện, cửa gương, vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua đường.

- Trong đêm thành phố mất điện, vầng trăng hiển hiện giữa bầu trời, tròn đầy, ngời sáng như một tác nhân gợi nhớ và nhắc nhở mọi người đừng vội quên quá khứ chưa xa bởi nó là một phần máu thịt của cuộc đời: Ngửa mặt lên nhìn mặt, có cái gì rưng rưng, như là đồng là bể, như là sông là rừng.

- Vầng trăng tượng trưng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, là biểu tượng của tinh thần lạc quan trong cuộc sống chiến đấu gian khổ, hiểm nguy mà ấm áp tình người.

- Hình ảnh vầng trăng chứa đựng lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà thấm thía: Trăng cứ tròn vành vạnh, kể chi người vô tình, ánh trăng im phăng phắc, đủ cho ta giật mình. Vầng trăng im lặng mà nói bao điều về nhận tình thế thái, làm giật mình thức tỉnh lương tâm con người.

3. Kết bài:

- Bài thơ Ánh trăng là lời nhắc nhở cả một thế hệ vừa trải qua cuộc chiến tranh đau thương và oanh liệt của dân tộc: Đừng bao giờ quên quá khứ sâu nặng nghĩa tình.

- Tác giả Nguyễn Duy góp thêm một bài thơ hay vào mảng thơ ca ngợi truyền thống tốt đẹp Uống nước nhớ nguồn đã có từ bao đời trên đất nước thân yêu của chúng ta.

II. BÀI LÀM

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đau thương và oanh liệt của dân tộc. Bài thơ Ánh trăng được viết tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong cuộc sống hoà bình, một số người đã từng trải qua thử thách, gian khổ, từng chứng kiến sự hi sinh lớn lao của đồng đội và nhân dân, từng gắn bó sâu nặng với thiên nhiên nhưng đã vội quên những gian nan, cơ cực và những kỉ niệm thắm thiết nghĩa tình của một thời chưa xa.

Bài thơ là một lần “giật mình” nhìn lại của Nguyễn Duy. Nó có tác dụng thức tỉnh bao người trước cái điều vô tình ấy.

Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm của riêng Nguyễn Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng riêng, tiếng thơ ông cất lên như một lời nhắc nhở. Vầng trăng ở đây không chỉ là một hình ảnh cụ thể của thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể và tính khái quát của bài thơ.

Bài thơ không chỉ đề cập đến thái độ thờ ơ, quay lưng đối với những hi sinh, mất mát của thời chiến tranh mà còn là chuyện nghĩa tình, nhớ về cội nguồn, nhớ về những người đã khuất. Cao hơn nữa, Ánh trăng còn là lời nhắc nhở mỗi con người về lẽ sống chung thuỷ với chính mình.

Sự kết hợp khéo léo giữa tự sự với trữ tình đã tạo cho bài thơ dáng dấp của một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tâm tình được thể hiện bằng thể thơ năm chữ. Hai khổ thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ về ánh trăng khi chiến đấu trong rừng. Khổ thứ ba là cảm xúc trước vầng trăng trong thành phố hoà bình. Nhịp thơ ở phần này tự nhiên, nhịp nhàng. Đến khổ thứ tư, giọng thơ thay đổi, thể hiện thái độ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của tác giả trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trong đêm mất điện. Giọng thơ trầm lắng, thiết tha ở hai khổ cuối rất hợp với dòng hồi tưởng và suy tư lặng lẽ.

Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn chảy theo những lời tự sự. Nhà thơ kể rằng: Hồi nhỏ sống với đồng, với sông rồi với bể; hồi chiến tranh ở rừng, vầng trăng thành tri kỉ. Nhà thơ tưởng không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Thế mà từ hồi về thành phố ăn sung mặc sướng, quen sống giữa những tiện nghi hiện đại, mới chỉ có mấy năm mà đã nhìn vầng trăng tình nghĩa như người dưng qua đường.

Sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính là tác nhân gợi nhớ để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc của mình: Thình lình đèn điện tắt, phòng buyn-đinh tối om, vội bật tung cửa sổ, đột ngột vầng trăng tròn. Ánh trăng toả sáng căn phòng. Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối cảnh ấy đã gây ấn tượng mạnh, thổi bùng nỗi nhớ về một thời máu lửa chưa xa.

Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên tươi mát, là người bạn tri âm tri kỉ của nhà thơ suốt thời tuổi nhỏ và thời chiến tranh. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng giữa thành phố làm sống dậy tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm ấm áp nghĩa tình của những năm tháng gian nan mà hào hùng. Hiển hiện rõ ràng trong tâm tưởng của một con người đang sống giữa phố phường hiện đại là những khung cảnh thân thương gắn liền với hình ảnh vầng trăng trong quá khứ. Tuy nhà thơ không khóc nhưng nỗi nhớ cứ rưng rức ở trong lòng: Ngửa mặt nhìn lên mặt, có cái gì rưng rưng, như là đồng là bể, như là sông là rừng.

Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của thiên nhiên mà cao hơn thế, nó là biểu tượng của tinh thần lạc quan trong cuộc sống chiến đấu gian khổ, hiểm nguy mà nồng đượm nghĩa tình và sáng ngời chân lí.

Khổ thơ cuối bài thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng và cũng là chiều sâu tư tưởng mang tính triết lí của tác phẩm. Trăng cứ tròn vành vạnh như quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. Ta có thể hiểu khác đi là những người cầm súng bảo vệ Tổ quốc đã ngã xuống trên mảnh đất này không bao giờ tính toán thiệt hơn. Đất nước, dân tộc mãi mãi ghi nhớ công lao của họ. Ánh trăng im phăng phắc không nói mà nói bao điều, nhắc nhở nhà thơ (và cả mỗi chúng ta) rằng: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên và nghĩa tình trong quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.

Bài thơ Ánh trăng là lời tự nhắc nhở của Nguyễn Duy về thái độ, tình cảm của mình đối với quá khứ gian khổ hào hùng của đất nước.

Tuy nhiên, bài thơ không phải là lời nhắc nhở riêng ai, mà nhắc nhở cả một thế hệ đã từng trải qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, được nhân dân đùm bọc, che chở, nay được may mắn sống trong hoà bình thì đừng bao giờ quên quá khứ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình. Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn. Đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta tự bao đời.