I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Hoàng Lê nhất thống chí do nhóm Ngô gia văn phái sáng tác từ thời Tây Sơn kéo dài cho đến khoảng đầu triều Nguyễn.

- Đây là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có quy mô lớn nhất trong văn học phong kiến nước ta, tái hiện chân thực và sinh động bối cảnh lịch sử đầy biến động trong khoảng ba thập kỉ cuối của thế kỉ XVIII và những năm đầu thế kỉ XIX.

- Nội dung hồi thứ 14 ghi chép lại những sự kiện lớn của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt chúa Trịnh, trả lại quyền cai trị đất nước cho vua Lê.

2. Thân bài:

* Phân tích:

+ Sự suy thoái, thối nát đến cực điểm của các tập đoàn phong kiến đương thời:

- Thời Lê mạt, vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan. Vua Lê Hiển Tông ốm đau, bạc nhược, cam phận làm bù nhìn, quyền hành rơi hết vào tay chúa Trịnh.

- Vua Lê Chiêu Thống: cam tâm bán nước, làm tay sai cho giặc ngoại xâm phương Bắc.

- Chúa Trịnh Sâm: sống xa hoa hưởng lạc, hoang dâm vô độ.

- Các phe phái phong kiến lục đục, chém giết lẫn nhau, tranh giành quyền lợi.

+ Hình ảnh sáng ngời của Nguyễn Huệ - vị anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc:

- Tướng giặc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long, không vấp phải sự kháng cự nào nên hết sức chủ quan.

- Biết được tài cầm quân xuất quỷ nhập thần của Nguyễn Huệ nên vua Lê Chiêu Thống vô cùng lo sợ.

- Nguyễn Huệ ra lệnh hành quân thần tốc ra Bắc, chỉ trong vòng 10 ngày đã đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm lược.

- Hình ảnh Nguyễn Huệ trực tiếp cưỡi voi đốc suất đại binh trong các cuộc tiến công với khí thế vũ bão của nghĩa quân Tây Sơn chính là khúc anh hùng ca ca ngợi sức mạnh chính nghĩa chống xâm lăng.

- Tài năng quân sự kiệt xuất của Nguyễn Huệ đã tôn vinh tên tuổi ông trong lịch sử nước nhà.

+ Thái độ của các tác giả:

- Tôn trọng sự thật lịch sử, nêu cao ý thức tự hào dân tộc.

- Dù có cảm tình với nhà Lê nhưng không đồng tình với thái độ hèn nhát cõng rắn cắn gà nhà của vua Lê Chiêu Thống.

- Viết về Quang Trung Nguyễn Huệ bằng ngòi bút phấn khích, tự hào, ca ngợi.

3. Kết bài:

- Bằng lối văn kể chuyện kết hợp với miêu tả chân thực và sinh động, các tác giả đã tái hiện bức tranh hiện thực lịch sử hào hùng với chiến công vang dội của nghĩa binh Tây Sơn quét sạch quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cõi nước ta.

- Khẳng định sức mạnh to lớn của chính nghĩa và số phận thảm hại của quân xâm lược cùng bọn vua quan bán nước.

- Hoàng Lê nhất thống chí là dấu son trong quá trình phát triển của văn học viết phong kiến thế kỉ XVIII.

II. BÀI LÀM

Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm do một số người cùng trong dòng họ Ngô Thì viết. Có thể hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du viết trong những thời điểm nối tiếp nhau.

Ngô Thì Chí (1758 - 1788) là em ruột của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Ông làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt lộng thần Nguyễn Hữu Chỉnh và dâng Trung hưng sách bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó, ông được vua Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập ra đoàn nghĩa binh chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh và mất đột ngột tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nhiều tài liệu cho rằng ông viết bảy hồi đầu của truyện.

Ngô Thì Du (1772 - 1840) là anh em chú bác với Ngô Thì Chí. Ông học giỏi nhưng không đỗ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ẩn mình ở vùng Kim Bảng, Hà Nam. Thời nhà Nguyễn, ông ra làm quan, được bổ nhiệm làm Đốc học Hải Dương, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả bảy hồi tiếp theo của Hoàng Lê nhất thống chí, trong đó có hồi mười bốn được trích giảng ở đây. Còn lại ba hồi cuối có thể do một người khác trong Ngô gia văn phái viết vào khoảng đầu triều Nguyễn.

Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách ghi chép về những sự kiện lớn của vương triều nhà Lê, có lẽ là vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại quyền cai trị đất Bắc Hà cho vua Lê. Về hình thức, tuy tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, nhưng các tác giả rất tôn trọng sự thật lịch sử. Cho nên, mặc dù do nhiều người viết và viết ở nhiều thời điểm khác nhau nhưng nội dung tác phẩm về cơ bản vẫn giữ được tính nhất quán.

Trong văn học Việt Nam thời trung đại, có thể coi Hoàng Lê nhất thống chỉ là một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có quy mô to lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc nhất về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết.

Tác phẩm đã tái hiện chân thực và sinh động bối cảnh lịch sử đầy biến động ở nước ta trong khoảng hơn ba thập kỉ cuối của thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Khởi đầu câu chuyện là sự sa đoạ, thối nát đến cực độ của các tập đoàn phong kiến. Thời Lê mạt, vua chẳng ra vua. Vua Lê Hiển Tông ốm đau, bạc nhược, chỉ còn biết chắp tay rủ áo, cam phận làm bù nhìn. Câu nói cửa miệng của ông ta là: Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Vua Lê Chiêu Thống đê hèn, cúi đầu khuất phục trước giặc Mãn Thanh, mong cứu vãn cái ngai vàng mục ruỗng sắp sụp đổ. Ông vua cuối cùng là Lê Duy Mật thì tệ hại đến mức bị người đời đánh giá cũng chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà thôi.

Trong phủ chúa, Trịnh Sâm sống xa hoa hưởng lạc, hoang dâm vô độ. Vì say mê Đặng Thị Huệ nên chúa Trịnh sẵn sàng phế con trưởng, lập con thứ, gây nên loạn từ trong nhà loạn ra. Anh em chém giết lẫn nhau. Kiêu binh ỷ thế lộng hành. Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết liệt, cần được giải quyết. Trong bối cảnh đó, cuộc nổi dậy với khí thế ngất trời của phong trào Tây Sơn là một tất yếu. Rồi Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn. Nhưng cơ nghiệp nhà Tây Sơn ngắn ngủi. Chúa Nguyễn dần dần hồi phục thế lực, dẹp Tây Sơn, lập vương triều mới (1802). Kết thúc tác phẩm là tình cảnh thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống khi nương thân ở nước người.

Tất cả những sự kiện lịch sử ấy được các tác giả ghi chép lại thật cụ thể, tỉ mỉ. Nổi bật trên bối cảnh của thời đại nhiễu nhương ấy là hình bóng của những nhân vật thuộc các phe phái đối lập, đặc biệt là hình ảnh ngời sáng của vua Quang Trung Nguyễn Huệ - người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc.

Hồi thứ mười bốn là đoạn trích dài, kể lại diễn biến của nhiều tình tiết, sự kiện. Để hiểu rõ đoạn trích này, chúng ta phải tìm hiểu đôi nét về nội dung của hồi mười hai và mười ba. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai để bắt viên quan phản bội Vũ Văn Nhậm thì vua Lê Chiêu Thống sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên vùng biên ải phía Bắc, chiêu mộ nghĩa binh cần vương để chống lại. Nhưng nhóm nghĩa binh ít ỏi ấy không đủ sức đối địch với quân Tây Sơn. Lê Chiêu Thống bèn cử hai viên quan hầu cận là Lê Duy Đản và Trần Danh Án bí mật trốn sang Trung Quốc, gặp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị để cầu viện. Tôn Sĩ Nghị muốn nhân cơ hội này cướp nước ta liền tâu lên vua Mãn Thanh, xin đưa quân sang đánh. Được lệnh, Tôn Sĩ Nghị kéo đại quân sang với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quận Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Điệp. Quân giặc kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự nào liền sinh ra kiêu căng, tự mãn, Lê Chiêu Thống cũng theo về, nhận sắc phong bù nhìn là An Nam Quốc Vương.

Đoạn đầu của hồi thứ mười bốn nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long, thấy dễ dàng, cho là vô sự nên không đề phòng gì cả. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu Thống rất lo lắng vì đã biết rất rõ tài cầm quân xuất quỷ nhập thần của Nguyễn Huệ.

Quân tướng Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long chỉ lo chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân, lính thì tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỉ luật gì cả. Người cung nhân cũ đến tấu với thái hậu về thái độ chủ quan coi thường Tây Sơn của giặc Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống có nguy cơ phải chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa. Thái hậu hoảng hốt nói với vua. Nhà vua lúc bấy giờ mới hoảng sợ, đến doanh trại xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn mắng thẳng vào mặt nên sợ hãi lui về.

Ở hồi thứ mười bốn này, với cảm quan lịch sử nhạy bén và niềm tự hào dân tộc lớn lao, các tác giả đã khắc hoạ thành công hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh; miêu tả sự thảm bại của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân.

Bài văn có thể chia làm ba đoạn:

Đoạn một: Từ đầu đến ...hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788): Được tin báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân lên đường ra Bắc dẹp giặc.

Đoạn hai: Từ Vua Quang Trung tự mình đốc xuất đại binh... đến vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành: Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.

Đoạn ba: Phần còn lại: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ được miêu tả là con người tài ba, hành động một cách quả quyết, xông xáo, nhanh gọn và có chủ đích rõ ràng. Nghe tin giặc Thanh đã chiếm đến tận Thăng Long, Nguyễn Huệ định thân chinh cầm quân đi ngay. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cộng sĩ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và nghĩ đến cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.

Nguyễn Huệ là ông vua có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã noi theo việc làm của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo. Ông khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc: Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc...

Nguyễn Huệ đã nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc ta từ xa xưa. Ông đưa ra một hệ thống dẫn chứng song hành liên tục, cứ một triều đại phương Bắc đi liền với một nhân vật kiệt xuất tiêu biểu của phương Nam. Việc khởi binh của Nguyễn Huệ nằm trong sự song hành ấy. Cũng từ cái nhìn sắc sảo này, hơn ai hết, ông vạch ra bản chất việc phù Lê của Tôn Sĩ Nghị chẳng qua là cái cớ để sang cướp nước ta: Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện... Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các người đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn.

Đồng thời, ông cũng ban ra kỉ luật thật nghiêm để răn dạy quân lính: Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước. Lời phủ dụ có thể xem như một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu sắc, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và động viên tinh thần quân sĩ.

Nguyễn Huệ sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp. Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của từng người, khen chê đều đúng người, đúng việc... Chẳng hạn khi đại binh thần tốc ra tới Tam Điệp, hai viên tướng Sở và Lân đều mang gươm trên lưng và xin chịu tội. Nguyễn Huệ hiểu trong binh pháp đã nêu rõ: “Quân thua chém tướng” nhưng ông đánh giá rất đúng rằng: Sở, Lân không phải hạng người hèn nhát. Hơn nữa, họ làm theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm. Khi thế giặc đang mạnh, Thăng Long lại ở trong tình trạng bị cô lập, thì việc rút lui để bảo toàn lực lượng, chờ đại quân kéo ra là thượng sách. Lẽ ra Sở, Lân bị trừng phạt nhưng cuối cùng lại được Nguyễn Huệ ngợi khen. Hiểu người và dùng người đến mức “tri kỉ, tri âm” như thế là tài của người cầm quân. Hay như khi Nguyễn Huệ sai đại tướng là Hám Hổ Hầu đi kén lính ở Nghệ An theo định mức cứ ba trai tráng, tức là ba suất đinh thì lấy một người, vì thế nên chẳng mấy chốc đã tuyển được hơn một vạn quân tinh nhuệ.

Nguyễn Huệ có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng. Hiếm có một niềm tin nào vững chắc như niềm tin của Nguyễn Huệ. Mới khởi binh đánh giặc, chưa được một tấc đất nào, vậy mà trước mọi người, ông khẳng định chắc chắn rằng: Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh. Ông còn chuẩn bị cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng đối với một nước lớn gấp mười nước mình. Thắng thì thắng, nhưng việc binh đao chưa thể dứt được ngay vì sỉ nhục của một nước lớn dễ gì nguôi ngoai. Vì thế cần phải hoà hiếu tạm thời: Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?

Quang Trung Nguyễn Huệ có tài dụng binh như thần. Cuộc hành quân thần tốc do ông đích thân chỉ huy. Ngày 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân ở Phủ Xuân (Huế), ngày 29 đã ra tới Nghệ An, vượt khoảng mấy trăm dặm qua núi, qua đèo. Tại đây, ông vừa tuyển quân, vừa tổ chức đội ngũ duyệt binh, chỉ trong một ngày. Hôm sau, tiến quân ra Tam Điệp, giáp giới Ninh Bình, Thanh Hoá. Đêm 30 tháng Chạp, quân sĩ lập tức lên đường, tiến ra Thăng Long. Có sách còn kể vua Quang Trung sử dụng cả cáng và võng. Cứ hai người khiêng thì một người được nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp ra tới Thăng Long khoảng hơn trăm dặm. Vừa hành quân, vừa đánh giặc, vậy mà vua Quang Trung khẳng định là mồng 7 tháng Giêng sẽ ăn Tết ở Thăng Long. Thực tế đã rút gọn được hai ngày. Hành quân xa liên tục như vậy, nhưng cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, cũng do tài năng tổ chức của người đứng đầu. Hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.

Quả thật, theo dõi cuộc hành quân của Nguyễn Huệ từ Tam Điệp trở ra, người đọc mới hiểu thế nào là thần tốc. Về lực lượng, quân của Nguyễn Huệ chia làm năm đạo, có cả thuỷ và bộ, nhưng bộ binh là chính. Phương tiện hành quân không thấy nói đến lừa, ngựa, chỉ có một ít voi, trong đó có con voi do vua Quang Trung cưỡi. Vậy thì đại quân chủ yếu là đi bộ. Từ Nghệ An ra, sau khi nhà vua hạ lệnh tiến quân, các quân đều nghiêm chỉnh mà đi. Từ Tam Điệp trở ra, tình hình cũng chẳng khác gì hơn. Đó là chưa nói vừa đi vừa đánh giặc. Đêm 30 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), đạo quân của Nguyễn Huệ còn ở Tam Điệp, mà đến đêm mùng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) đã tới Hà Hồi, vượt qua hai con sông Gián Khẩu và Thanh Quyết, tiếp cận Thăng Long. Hơn một trăm dặm mà chỉ đi có ba ngày! Giữ nguyên tốc độ ấy, mờ sáng ngày mùng 5 Tết, đại quân đã đến đồn Ngọc Hồi, dập tắt sự kháng cự dữ dội của giặc dưới sự chỉ huy của tên thái thú Sầm Nghi Đống.

Trong trận chiến, vua Quang Trung thân chinh cầm quân. Ông là vị tổng chỉ huy chiến dịch, tự hoạch định chiến lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một mũi tiến công, xông pha tên đạn... Đội quân Tây Sơn chưa được luyện tập, lại vừa trải qua những ngày hành quân vất vả, vậy mà đã đánh những trận áp đảo kẻ thù. Khi công phá đồn Ngọc Hồi, ông chỉ đạo quân ta lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che; giáp lá cà thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh... Khí thế của nghĩa quân làm cho kẻ thù phải khiếp vía: Thật là: Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên. Hình ảnh dũng mãnh của vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc trận đánh phản ánh cuộc chiến đấu thật quyết liệt và cũng thật hào hùng.

Cùng ngày hôm đó, đại quân đã tiến đến Thăng Long. Cuộc hành quân thần tốc ấy đã đem lại hiệu quả ngoài sức tưởng tượng. Mưu lược quân sự của vua Quang Trung biến hoá như thần, không có trong bất cứ một cuốn binh thư nào từ trước đến nay.

Nguyên nhân của những thắng lợi to lớn ấy trước hết là nhờ quân ta đảm bảo được yếu tố bất ngờ. Mỗi trận đánh, Quang Trung đều dồn đối phương vào một ván cờ đã bày sẵn mà ông nắm chắc phần thắng, khiến chúng không kịp trở tay. Chính vì coi trọng yếu tố bất ngờ nên khi tới sông Thanh Quyết, Quang Trung đã cho truy đuổi và tiêu diệt gọn toán do thám của giặc để đảm bảo bí mật những trận đánh lớn tiếp theo, để quân Thanh đóng ngoài Thăng Long không kịp biết tin tức mà chủ động đề phòng. Trong chiến tranh, đảm bảo được bí mật, bất ngờ đã là nắm chắc một nửa thắng lợi trong tay.

Nói cho cùng, thắng bại của một cuộc chiến phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng hai yếu tố chính là thế và lực. Lực liên quan đến thế và thế có thể tạo ra lực. Quang Trung đã tận dụng và phát huy tối đa hai yếu tố then chốt ấy. Bất ngờ là một khía cạnh của thế. Quang Trung giữ kín yếu tố bất ngờ về thời gian và địa điểm tấn công. Ngoài ra còn có sự bất ngờ về cách đánh. Trường hợp đánh đồn Hạ Hồi là một đồn nhỏ thì chiến thắng của đại quân có phần đơn giản, bởi không cần bắn một mũi tên nào mà kẻ thù tự đem mình chịu trói. Cái đó còn nhờ vào mưu. Người cầm quân phải có một sự quyền biến trong mưu lược đạt tới mức nghệ thuật thì mới có thể vừa chiến thắng vẻ vang, vừa bảo toàn được lực lượng. Tới đồn Ngọc Hồi, cửa ngõ của kinh thành Thăng Long thì tình thế lại hoàn toàn khác. Lực lượng lớn của giặc đóng ở đây. Muốn áp đảo kẻ thù ngay từ phút đầu thì phải thay đổi cách đánh. Để vô hiệu hoá hoả lực của giặc, Quang Trung đã ra lệnh cho quân sĩ dùng ván bọc rơm ướt làm thành một thứ khiên mộc đơn giản để che chắn cho đại quân dàn chữ “nhất” tiến lên. Kết quả là quân giặc bắn ra chẳng trúng người nào cả. Đến khi quân Thanh dùng ống phun khói để làm cho đại quân ta rối loạn thì bỗng chốc gió trở chiều, thành ra quân Thanh lại tự hại mình, dồn mình vào cái thế không thể chống đỡ được nữa. Uất ức vì tướng giỏi, quân đông, ý chí xâm lược và mưu kế có thừa mà phải tự trói tay nộp mạng, Sầm Nghi Đống đã thắt cổ tự tử.

Để đạt được chiến thắng tuyệt đối, Nguyễn Huệ đặt ra mục đích vừa tiêu diệt lực lượng đối phương, vừa bẻ gãy hoàn toàn ý chí của chúng. Ông đã bày ra một thế trận mà giặc cảm thấy là thiên la địa võng. Cho nên quân tướng nhà Thanh càng đánh càng thua, phải hoảng loạn rút chạy. Ở vào cái thế cùng đường, quận Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô, quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người.

Giữ vững thế và lực ấy, tranh thủ thời cơ, không một phút nghỉ ngơi hay thoả mãn, đại binh của Tây Sơn kéo thẳng vào kinh thành Thăng Long. Quy mô các trận đánh ngày càng mở rộng.

Quân tướng giặc kinh hoàng. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, không kịp trở tay. Thế là, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, Tôn tổng đốc chỉ còn biết cắm đầu nhằm hướng Bắc mà chạy. Chi tiết có thực này mang ý nghĩa rất lớn bởi vì chỉ mới ít ngày trước đó, hai chục vạn quân từ phương Bắc hùng hổ kéo sang, tuyên bố “làm cỏ giặc Tây Sơn”. Hợm hĩnh, kiêu căng là thế, nay một mảnh giáp không còn, nhục nhã biết bao!

Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao các tác giả Ngô gia văn phái vốn trung thành với nhà Lê mà lại có thể viết thực và hay đến thế về người anh hùng Nguyễn Huệ? Ta thấy quan điểm phản ánh hiện thực của các tác giả là tôn trọng sự thật lịch sử và nêu cao ý thức tự hào dân tộc. Dù có cảm tình với nhà Lê, nhưng họ không thể bỏ qua sự thực là vua Lê Chiêu Thống hèn nhát đã cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lẫy lừng của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc. Cho nên, họ mới có thể viết được những trang viết hào hùng, phấn khích như vậy.

Tướng giặc Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang cướp nước ta nhằm những lợi ích riêng, nhưng hắn lại không muốn tốn nhiều xương máu. Như lời người cung nhân cũ nói với thái hậu: ...những điều họ bắt buộc mình phải đương lấy rất là nặng nề; còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm mà thôi.

Tôn Sĩ Nghị là một tên tướng bất tài, cầm quân mà không nắm được tình hình thực hư ra sao, lại còn kiêu căng, tự mãn, chủ quan khinh địch. Dù đã được vua Lê Chiêu Thống cảnh báo trước, y vẫn không chút đề phòng, suốt mấy ngày Tết chỉ chăm chú vào yến tiệc... không hề lo chi đến việc bất trắc, cho quân lính mặc sức vui chơi.

Khi nghĩa quân Tây Sơn tiến đánh đến nơi, tướng giặc thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp... chuồn trước qua cầu phao, lính thì ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết... Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều... đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa. Cả đội binh hùng tướng mạnh, quen diễu võ dương oai, giờ đây chỉ còn biết tháo chạy suốt đêm suốt ngày, không dám nghỉ ngơi.

Đoạn trích trên đây còn thể hiện số phận thảm hại của bọn vua quan phản nước. Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của quốc gia, dân tộc trao vào tay kẻ thù xâm lược. Lẽ tất nhiên, Lê Chiêu Thống phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, tự đánh mất tư cách của bậc quân vương và kết cục cũng phải chịu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc. Khi quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, Lê Chiêu Thống vội vã cùng mấy bề tôi thân tín lẻn đưa Thái hậu ra ngoài, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền dân để qua sông. May gặp người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Tư cách hèn hạ của vua Lê Chiêu Thống được các tác giả đặc tả trong nhiều trường hợp, những giọt nước mắt ngậm ngùi tiễn biệt Tôn Sĩ Nghị ở biên giới của ông ta thật thảm hại mà cũng thật nực cười...

Tác giả miêu tả chân thực tình cảnh khốn cùng của vua tôi Lê Chiêu Thống và kín đáo gửi gắm vào đó một chút cảm xúc riêng của người bề tôi cũ. Cảm xúc ấy biểu hiện qua giọng văn có phần ngậm ngùi, chua xót, khác với âm hưởng sôi nổi, hào hứng ở trên.

Bằng lối văn trần thuật kết hợp miêu tả chân thực, sinh động, tác giả đã giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp hào hùng của đạo quân chính nghĩa do người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ chỉ huy trong trận tiến công đại phá quân Thanh; đồng thời thấy rõ sự thảm bại của bọn xâm lược và số phận của bè lũ vua quan bán nước.