I. Dàn Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu vài nét về tác phẩm:
- Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân được sáng tác trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Nhân vật chính là ông Hai đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về một nông dân yêu làng, yêu nước.
2. Thân bài:
* Phân tích tính cách của ông Hai:
+ Ông Hai có một tình yêu làng quê thật mãnh liệt:
- Mỗi khi kể về làng Chợ Dầu, ông Hai đều kể bằng giọng say mê và hãnh diện.
- Theo ông đánh giá thì cái gì của làng Chợ Dầu quê ông cũng hơn hẳn thiên hạ.
- Ông Hai tự hào về phong trào du kích kháng chiến sôi nổi của làng Chợ Dầu. Ông đã từng hăng hái tham gia đào hào, đắp luỹ chặn bước quân thù.
+ Ông Hai đau khổ tột cùng khi nghe tin dân làng Chợ Dầu theo giặc:
- Nghe thấy người dưới xuôi tản cư lên báo tin làng Chợ Dầu đầu hàng, làm “Việt gian” cho Pháp, ông Hai căm giận và xấu hổ vì nhục nhã, nguyền rủa những kẻ hèn nhát, bôi nhọ truyền thống tốt đẹp của làng Chợ Dầu.
- Trong thâm tâm, ông không tin như vậy.
+ Ông Hai phấn khởi khi nghe chính chủ tịch xã từ dưới quê lên khẳng định làng Chợ Dầu vẫn kiên cường kháng chiến:
- Gặp ai ông Hai cũng tuyên bố tin làng Chợ Dầu làm “Việt gian” là: “Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.
- Niềm vui, niềm tin của ông lan sang mọi người. Ông Hai xúc động thật sự khi làng Chợ Dầu vẫn xứng đáng là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông.
3. Kết bài:
- Mỗi con người Việt Nam đều yêu thương, gắn bó tha thiết với quê hương. Tình yêu làng, yêu nước là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp đã được nhà văn Kim Lân khám phá, thể hiện chân thực và sinh động.
II. BÀI LÀM
Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên về nhân vật ông Hai, một nông dân yêu mến, gắn bó với quê hương bằng một tình cảm thiết tha, sâu nặng.
Ông Hai có một tình yêu làng quê thật mãnh liệt. Mỗi khi nói đến cái làng Chợ Dầu quê ông nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc, ông đều kể bằng giọng say mê náo nức lạ thường. Nào là làng mình nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh; nào là đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối làng không hề lấm gót, ngày mùa phơi thóc phơi rơm thì tốt thượng hạng... Yêu mến, hãnh diện về làng mình, nên ông Hai mắc tật hay khoe. Theo ông thì cái gì của làng Chợ Dầu quê ông cũng hơn hẳn thiên hạ.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cuộc sống của gia đình ông Hai có nhiều thay đổi, duy niềm tự hào về làng Chợ Dầu dường như vẫn y nguyên. Ở nơi tản cư, ông hay kể cho mọi người nghe về làng mình với những hố, những ụ chống càn, những giao thông hào chằng chịt như mạng nhện, những cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vẫn tập đi một, hai, một, hai... Làng ông có chòi phát thanh cao nhất vùng, có nhà thông tin rộng rãi sáng sủa nhất vùng... Ông Hai rất kiêu hãnh về phong trào kháng chiến sôi nổi của làng Chợ Dầu. Ông đã tích cực cùng mọi người đào đường đắp luỹ, rào làng kháng chiến, góp phần vào những thành tích đáng tự hào của quê hương.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện một cách cảm động trong những ngày buộc phải tản cư. Mọi niềm vui, nỗi khổ của ông gắn liền với vận mệnh của làng Chợ Dầu kháng chiến. Nghe tin đồn dân làng Chợ Dầu làm Việt gian theo Tây, ông Hai vô cùng đau khổ: Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rần rần. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Ông cảm thấy đau đớn vì làng Chợ Dầu yêu quý của ông đã rời bỏ Cách mạng. Không chịu nổi sự nhục nhã, ông vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi cúi gằm mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nước mắt cứ giàn ra. Đau đớn, xấu hổ, ông Hai lúc nào cũng nơm nớp lo sợ người ta để ý, bàn tán về dân làng Chợ Dầu theo giặc. Có lúc uất quá, ông nắm chặt tay, nghiến răng nguyền rủa: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!”. Có lẽ đây là lần đầu tiên ông Hai oán giận làng mình. Không thể san sẻ với người ngoài, ông chỉ còn biết tâm sự với những đứa con cho vơi bớt nỗi đau.
Nhưng rồi nỗi đau khổ, nhục nhã đã được thay thế bằng niềm vui sướng, hân hoan. Ông Hai báo với mọi người cái tin làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt: Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn... cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả! Ông Hai mừng rỡ vì dân làng Chợ Dầu vẫn trung thành với kháng chiến. Làng Chợ Dầu vẫn xứng đáng với niềm tự hào của ông Hai. Không nén nổi cảm xúc, ông Hai múa tay lên mà khoe. Mọi nỗi khổ, niềm vui của ông không bó hẹp trong sự bình yên của bản thân và gia đình mà tất cả đều vì làng Chợ Dầu quê hương ông.
Mỗi người Việt Nam đều yêu thương, gắn bó với quê hương mình. Đó là nơi tổ tiên ông cha sinh cơ lập nghiệp đã bao đời. Đó là nơi chôn rau cắt rốn, nơi có những người thân yêu đang cần cù làm lụng một nắng hai sương. Vì vậy, lòng yêu mến làng quê đã trở thành tình cảm truyền thống của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là người nông dân Việt Nam. Yêu làng cũng là yêu nước. Ông Hai đã buồn vui, sướng khổ, đã kiêu hãnh, tự hào vì làng Chợ Dầu quê hương ông. Đó chính là vẻ đẹp mới trong tâm hồn người nông dân thời kháng chiến chống Pháp đã được nhà văn Kim Lân khám phá và thể hiện.