I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Xuất xứ đoạn trích: Đoạn này nằm sau đoạn kể về chuyện trước khi lên kinh ứng thí, Lục Vân Tiên ghé về thăm nhà để từ biệt cha mẹ.

- Nội dung đoạn trích: Trên đường đi, Lục Vân Tiên chứng kiến cảnh bọn thảo khấu Phong Lai cướp bóc, hãm hại dân lành. Chàng đã dũng cảm đánh tan bọn chúng, cứu tiểu thư Kiều Nguyệt Nga và tì nữ Kim Liên, Nguyệt Nga cảm kích mời chàng về nhà để tạ ơn, nhưng Vân Tiên đã khảng khái chối từ.

2. Thân bài:

* Phân tích:

+ Lục Vân Tiên đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.

- Đảng cướp Phong Lai tấn công vào làng, dân chúng hốt hoảng chạy trốn lên rừng.

- Lục Vân Tiên thấy vậy dừng lại hỏi han. Mọi người khuyên chàng không nên tự chuốc lấy nguy hiểm vào thân.

- Chàng là hiện thân của trang anh hùng hảo hán; thấy việc nghĩa là ra tay, bất chấp hiểm nguy:

Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dang.

Lâu la bốn phía vỡ tan,

Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.

Phong Lai trở chẳng kịp tay,

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong...

Hành động của Vân Tiên chứng tỏ đức tính cao quý vị nghĩa vong thân (vì việc nghĩa quên mình), rất đáng khâm phục và ca ngợi.

- Vân Tiên giúp người không hề vụ lợi:

Làm ơn há dễ trông người trả ơn...

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

- Với phẩm chất tốt đẹp như vậy, Lục Vân Tiên đã trở thành một hình tượng mẫu mực để Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm khát vọng và niềm tin của mình.

+ Kiều Nguyệt Nga chân thành cảm ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên.

- Nguyệt Nga là tiểu thư con quan, có học thức và biết lễ nghĩa. Lời lẽ giãi bày của nàng với Vân Tiên thể hiện rõ điều đó.

- Nàng băn khoăn tìm cách trả ơn Vân Tiên, dù biết rằng ơn cứu mạng đền đáp bao nhiêu cũng không đủ. (Hà Khê qua đó cũng gần, Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng... Gẫm câu báo đức thù công, Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi...)

- Nguyệt Nga tự nguyện gắn bó đời mình với Vân Tiên, dù giữa hai người không một lời hứa hẹn. Hình tượng Nguyệt Nga tiêu biểu cho người phụ nữ đoan trang, tiết hạnh, đáng ca ngợi.

3. Kết bài:

Qua đoạn trích, chúng ta hiểu được khát vọng cứu người, giúp đời của Nguyễn Đình Chiểu. Phẩm chất cao quý của Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga tiêu biểu cho vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng trọng nghĩa và người phụ nữ thuỷ chung, tiết hạnh. Hình tượng hai nhân vật chính sống mãi trong lòng người dân Nam Bộ yêu chính nghĩa, ghét gian tà.

II. BÀI LÀM

Trước khi lên kinh ứng thí, Lục Vân Tiên định ghé thăm nhà để từ biệt cha mẹ. Trên đường đi, chàng đã bẻ cây làm gậy xông vào đánh tan bọn cướp hung hãn, cứu hai người con gái là tiểu thư Kiều Nguyệt Nga và nàng hầu Kim Liên. Nguyệt Nga cảm kích muốn mời chàng về nhà để tạ ơn, nhưng Vân Tiên khảng khái chối từ.

Ở đoạn trích này, tác giả tập trung thể hiện phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật chính: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài và Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, đoan trang, ân tình. Thông qua đó, tác giả thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của mình.

Bố cục đoạn trích có thể chia làm hai đoạn:

Đoạn một: Từ đầu đến thác rày thân vong: Lục Vân Tiên đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga.

Đoạn hai: Phần còn lại: Thái độ cư xử đúng mực của Lục Vân Tiên; Nguyệt Nga cảm ơn ân nghĩa cứu mạng.

Trước đoạn trích này là cảnh dân chúng hốt hoảng chạy vào rừng lên non, để trốn khỏi sự tàn bạo của bọn cướp Phong Lai. Thấy vậy, Lục Vân Tiên không thể làm ngơ nên đã dừng lại hỏi han. Mọi người khuyên chàng không nên tự chuốc lấy nguy hiểm vào thân:

Dân rằng: lũ nó còn đây,

Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành.

E khi hoạ hổ bất thành,

Khi không mình lại xô mình xuống hang.

Nhân vật Lục Vân Tiên được tác giả khắc hoạ theo kiểu mẫu quen thuộc trong truyện thơ Nôm truyền thống: Một chàng trai tài giỏi cứu một cô gái đẹp thoát khỏi tình huống hiểm nghèo; rồi từ ân nghĩa đến tình yêu, giống như Thạch Sanh đánh đại bàng, cứu công chúa Quỳnh Nga. Trong thời buổi nhiễu nhương, hỗn loạn, người ta trông mong sự xuất hiện của những trang anh hùng hảo hán, dám ra tay nghĩa hiệp giúp đời. Kết cấu có hậu đó thường phản ánh niềm mong ước tha thiết của nhân dân.

Lục Vân Tiên là một nhân vật tượng trưng cho lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Đình Chiểu. Chàng trai tuổi vừa hai tám (tức là mười sáu tuổi), đầy nhiệt huyết, mong có dịp thi thố tài năng, hăm hở muốn lập công danh. Trận đụng độ với bọn cướp Phong Lai hung dữ là thử thách đầu tiên trong đời chàng:

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.

Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:

“Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.

Trước gây việc dữ tại mầy,

Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng.”

Dám xông vào chỗ hiểm nguy để đánh cướp, cứu người mắc nạn, hành động ấy bộc lộ tính cách anh hùng và tấm lòng vì nghĩa của Vân Tiên. Vân Tiên đanh thép cảnh cáo bọn cướp, nhanh chóng dẹp tan lũ hung đồ:

Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.

Lâu la bốn phía vỡ tan,

Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.

Phong Lai trở chẳng kịp tay,

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Vân Tiên chỉ có một mình với tay không đánh giặc, trong khi bọn cướp rất đông, gươm giáo đủ đầy, thanh thế lẫy lừng: Người đều sợ nó có tài khôn đương. Vậy mà chàng không hề run sợ, vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên được miêu tả thật đẹp, thật oai hùng theo cách tả của văn chương thời xưa, nghĩa là chàng được so sánh với những nhân vật lí tưởng như dũng tướng Triệu Tử Long mà người Việt Nam, đặc biệt là người dân Nam Bộ vốn mê Tam Quốc và giàu tinh thần thượng võ, không mấy ai không thán phục!

Hành động của Vân Tiên chứng tỏ đức tính cao quý của con người vị nghĩa vong thân (vì việc nghĩa quên thân mình) và tài năng của bậc anh hùng có đủ sức mạnh để bênh vực kẻ yếu, trừng trị những kẻ bạo tàn. Theo quan điểm dân gian, bậc trượng phu thấy việc nghĩa thì phải ra tay. Loại người thấy việc nghĩa mà dửng dưng ngoảnh mặt làm ngơ sẽ bị người đời chê bai, khinh ghét: Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã (thấy điều nghĩa mà không làm thì không dũng cảm).

Thái độ và hành động vì nghĩa của Lục Vân Tiên thể hiện chàng thấm nhuần quan điểm đúng đắn đó. Chàng sẵn sàng xả thân cứu người, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng của mình. Tính cách ấy đáng ca ngợi vô cùng!

Sau khi phá tan bọn cướp, Lục Vân Tiên lựa lời an ủi người bị nạn:

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi:“Ai than khóc ở trong xe này?”

Thưa rằng:“Tôi thiệt người ngay,

Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.

Trong xe chật hẹp khôn phố,

Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng”.

Vân Tiên nghe nói động lòng,

Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la.

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,

Nàng là phận gái, ta là phận trai.

Tiểu thơ con cái nhà ai,

Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì?

Chẳng hay tên họ là chi?

Khuê môn phận gái việc gì đến đây?

Trước sau chưa hãn dạ nầy,

Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra ?"

Thái độ cư xử của Vân Tiên đối với Kiều Nguyệt Nga thể hiện tính chính trực, hào hiệp và nhân hậu. Thấy hai cô gái còn chưa hết sợ hãi, Vân Tiên ân cần hỏi han, an ủi họ. Khi nghe trong kiệu vọng ra tiếng nói muốn được tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi: Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái, ta là phận trai.

Câu nói này vừa chứa đựng sự câu nệ của lễ giáo phong kiến nam nữ thụ thụ bất thân, vừa thể hiện suy nghĩ trong sáng của Vân Tiên: Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Chàng không muốn nhận những cái lạy tạ của hai cô gái và từ chối lời mời về thăm nhà của Nguyệt Nga. Sau đó, chàng không nhận chiếc trâm vàng nàng tặng mà chỉ cùng nàng xướng hoạ một bài thơ rồi thanh thản ra đi, không hề vấn vương. Dường như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là bổn phận, là lẽ tự nhiên và chàng không coi đó là công trạng. Đó là thái độ nghĩa hiệp rất đáng khâm phục của các trang anh hùng hảo hán:

Vân Tiên nghe nói liền cười:

“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.

Nay đà rõ đặng nguồn cơn,

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.

Nhớ cậu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Với phẩm chất cao đẹp, Lục Vân Tiên đã trở thành một hình tượng lí tưởng để Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm vào đó niềm tin và ước vọng của mình.

Phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Kiều Nguyệt Nga được tác giả thể hiện qua lời lẽ chân thành mà nàng giãi bày với Lục Vân Tiên. Đó là lời lẽ của một tiểu thư khuê các, đoan trang và có học thức:

Thưa rằng:“Tôi Kiều Nguyệt Nga,

Con nầy tì tất tên là Kim Liên.

Quê nhà ở quận Tây Xuyên,

Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.

Sai quân đem bức thơ về,

Rước tôi qua đó định bề nghi gia.

Làm con đâu dám cãi cha,

Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.

Chẳng qua là sự bất bình,

Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.

Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.

Trước xe quân tử tạm ngồi,

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.

Chút tôi liễu yếu đào thơ,

Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.

Hà Khê qua đó cũng gần,

Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.

Gặp đây đương lúc giữa đàng,

Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.

Gẫm cầu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.

Cách xưng hô của nàng vừa trân trọng, vừa khiêm nhường; nói năng dịu dàng, mực thước; trình bày rõ ràng, khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa thể hiện niềm cảm kích chân thành đối với ân nhân cứu mạng.

Nguyệt Nga là người chịu ơn. Lục Vân Tiên không chỉ cứu mạng, mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng. Đối với người con gái, điều đó còn quý hơn tính mạng:

Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.

Nàng băn khoăn tìm cách trả ơn chàng, dù hiểu rằng đền đáp bao nhiêu cũng là không đủ:

Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

Bởi thế, nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng trai khảng khái, hào hiệp và sau này dám liều mình quyên sinh để giữ trọn ân nghĩa thuỷ chung.

Nhân vật Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, những con người luôn đặt ân nghĩa lên hàng đầu, coi ân nghĩa là gốc rễ của đạo dức.

Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện Lục Vân Tiên ban đầu là để truyền miệng cho các môn đệ. Sau đó, mọi người ghi chép lại và lưu truyền trong dân gian chủ yếu là bằng các hình thức kể thơ, nói thơ. Khi miêu tả nhân vật, tác giả không miêu tả cụ thể ngoại hình và diễn biến nội tâm nhân vật mà chủ yếu miêu tả tính cách qua hành động và lời nói. Thêm vào đó, nhiệt tình ca ngợi hay thái độ phê phán của tác giả cũng làm cho nhân vật trở nên sống động, để lại những ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.

Ngôn ngữ truyện thơ Lục Vân Tiên mộc mạc, bình dị, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng và mang đậm sắc thái địa phương Nam Bộ. Chính vì thế mà phạm vi lưu truyền của tác phẩm trong dân gian rất rộng.

Qua đoạn trích, chúng ta hiểu được khát vọng cứu người, giúp đời của tác giả và phẩm chất cao quý của hai nhân vật chính Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga. Lục Vân Tiên tiêu biểu cho vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng trọng nghĩa. Nguyệt Nga tiêu biểu cho vẻ đẹp trong sáng, chung thuỷ sắt son của người phụ nữ. Họ đã trở thành gương sáng để các bậc cha mẹ giáo dục con cái: Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình. Hình tượng tuyệt vời của Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga mãi mãi in sâu trong tâm thức của dân tộc Việt Nam yêu chính nghĩa, ghét gian tà.