I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Nguyễn Du - nhà thơ lớn của thế kỉ XVIII đã sáng tạo nên hình tượng nhân vật bất hủ Thuý Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn.

- Cuộc đời Thuý Kiều là một bi kịch đau thương. Vượt lên những cảnh đời đen tối, phẩm cách của nàng luôn toả sáng: hiếu thảo, nhân nghĩa, thuỷ chung và giàu đức hi sinh.

2. Thân bài:

* Thuý Kiều - người con hiếu thảo:

- Một lòng kính trọng, yêu thương cha mẹ.

- Hi sinh bản thân để đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ (Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha).

- Mười lăm năm lưu lạc, lúc nào nàng cũng nhớ tới cha mẹ, xót xa thương cảm cha yếu, mẹ già; băn khoăn không được gần gũi để chăm nom cha mẹ.

- Khát khao được trở về sum họp cùng cha mẹ. Ngày tái ngộ, Kiều vui mừng vô hạn khi gặp lại gia đình. Nàng coi đó là hạnh phúc lớn nhất:

Trông xem đủ mặt một nhà,

Xuân già còn trẻ huyên già còn tươi...

Được rày tái thế tương phùng,

Khát khao đã thoả tấm lòng bấy nay.

* Thuý Kiều - người tình chung thuỷ:

- Tình yêu của Thuý Kiều với Kim Trọng là tình yêu trong sáng và mãnh liệt. Nàng yêu Kim Trọng hết lòng, cùng chàng thề nguyền gắn bó trăm năm.

- Vì lí do gia đình gặp tai hoạ lớn nên nàng không giữ được lời thề với chàng Kim. Kiều băn khoăn, đau khổ và đi đến quyết định nhờ em gái là Thuý Vân thay mình đền đáp tình chàng: Tình sâu mong trả nghĩa dày...

- Suốt quãng đời lưu lạc, bị sóng gió cuộc đời vùi dập thảm thương, nhưng Thuý Kiều vẫn không nguôi nhớ thương Kim Trọng.

- Trong cái tình của Thuý Kiều đối với Kim Trọng sau ngày tái ngộ còn gắn thêm cái nghĩa. Bởi vẫn còn yêu Kim Trọng, còn tôn thờ mối tình đầu đẹp đẽ, thiêng liêng nên Kiều đã: Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì. (Tình yêu, tình vợ chồng đổi thành tình bạn).

* Thuý Kiều - con người trọng nhân nghĩa:

- Cung cách cư xử của Thuý Kiều chứng tỏ nàng là người trọng nghĩa. Tất cả những ai đã giúp đỡ nàng lúc khốn khó (mụ quản gia, vãi Giác Duyên, sư Tam Hợp, Thúc Sinh...) đều được nàng đền ơn xứng đáng.

- Những kẻ gây ra bao đau khổ, tai hoạ cho cuộc đời nàng (Mã Giám Sinh, Tú Bà, Ưng, Khuyển...) đều bị trừng trị. Riêng đối với Hoạn Thư, Kiều tha tội cho mụ vì nhiều lí do, trong đó có lí do mụ vừa là kẻ thù (đày đoạ Kiều) vừa có lúc là ân nhân của nàng (để mặc cho Kiều trốn khỏi nhà mà không truy bắt).

- Việc báo ân, báo oán của Kiều được nhiều người khen ngợi:

Đã nên có nghĩa có nhân,

Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen...

* Thuý Kiều - con người nhẹ dạ cả tin:

Vì tin vào lời hứa của Hồ Tôn Hiến nên nàng đã khuyên Từ Hải ra hàng, dẫn đến kết cục tai hại là làm đổ vỡ sự nghiệp và cái chết oan ức của Từ Hải. Cội nguồn sâu xa của hành động sai lầm này là lòng nhân ái, tin người. Kiều thực sự không muốn tiếp diễn cảnh máu chảy đầu rơi; không muốn Từ Hải phải sống ngoài vòng pháp luật và bản thân nàng mong mỏi sớm được sum họp với gia đình. Xét kĩ, ta có thể thông cảm và tha thứ cho Kiều. Nàng đã ân hận, đau khổ đến mức muốn tìm đến cái chết để chuộc lại lỗi lầm.

3. Kết bài:

- Thuý Kiều là một con người có nghĩa, có tình. Mặc dù rơi vào cảnh ngộ éo le, đau khổ triền miên nhưng nàng vẫn giữ được phẩm hạnh tốt đẹp, chẳng khác chi bông sen ngạo nghễ vươn lên trên bùn lầy tăm tối.

- Nhân vật Thuý Kiều đã để lại những bài học đạo lí thấm thía và bổ ích. Đó cũng là giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.

II. BÀI LÀM

Nguyễn Du - đại thi hào của nước ta cuối thế kỉ XVIII, bằng tâm huyết và tài năng trác tuyệt đã xây dựng thành công một hình tượng nhân vật bất hủ là Thuý Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn. Thuý Kiều là người con chí hiếu, là người tình chung thuỷ, là người trọng nhân nghĩa và giàu đức hi sinh. Mặc dù cuộc đời nàng chìm ngập trong nỗi bất hạnh, đau thương, nhưng nàng vẫn cố gắng vươn lên và phẩm hạnh của nàng luôn toả sáng.

Trước hết, Thuý Kiều là một người con hiếu thảo. Trước tai hoạ bất ngờ của gia đình, cha bị vu oan, bị tra tấn dã man; nhà cửa bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa cướp phá tan hoang, trái tim Kiều đau đớn như bị xé ra từng mảnh. Cái điều kiện ác nghiệt của bọn quan lại tham nhũng: Có ba trăm lạng, việc này mới xuôi đã đẩy Thuý Kiều vào bước đường cùng. Không còn cách nào khác, Kiều đã quyết định hành động ngoài dự tính của mọi người và của chính bản thân nàng: Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha. Cơ sở của hành động cao đẹp ấy chính là lòng hiếu thảo. Thuý Kiều đã cắn răng gạt chữ tình sang một bên để đáp đền chữ hiếu, mặc dù mối tình đầu trong trắng, thiêng liêng với Kim Trọng được nàng coi là lẽ sống của đời mình.

Suốt mười lăm năm lưu lạc nơi đất khách quê người: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương, lênh đênh chìm nổi: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, nhưng không lúc nào Kiều nguôi nhớ đến gia đình và cha mẹ.

Lúc ở lầu Ngưng Bích, xa nhà chưa bao lâu mà nàng tưởng như đã trải qua biết mấy nắng mưa. Nàng hình dung cha mẹ tựa cửa hôm mai, mỏi mòn trông đợi, mà mình thì xa xôi cách biệt, hỏi ai là người chăm sóc sớm khuya?! Đến lúc buộc phải chấp nhận kiếp kĩ nữ ở lầu xanh, Kiều lại càng thương cha nhớ mẹ. Nỗi nhớ ấy đã thấm đẫm trong nỗi thương thân khiến lời than thở của Kiều nghe muốn rơi nước mắt: Dặm nghìn nước thẳm non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Nàng đau khổ cho mình và cũng đau khổ cho cha mẹ. Lúc bán mình, nàng cứ nghĩ rằng mình chỉ đem thân làm thiếp, làm vợ lẽ người ta chứ đâu đến nỗi ô nhục như vậy!

Nàng ân hận bởi bổn phận làm con không trọn vẹn. Dù rằng ở nhà đã có hai em, nhưng chăm sóc cha mẹ là bổn phận của người con gái lớn trong nhà. Tấm lòng hiếu thảo của một người con như thế quý biết bao, thương biết bao! Lúc tâm sự với cha, Kiều đã viện đến mấy lời khuyên về đạo làm con của Nho gia nhưng chữ hiếu của nàng không phải chỉ là chữ hiếu phục tùng. Nó đơn giản nhưng hồn nhiên và sâu thẳm bởi nó là chữ hiếu của tình thương, của trái tim Thuý Kiều.

Đối với Kim Trọng, Thuý Kiều là một người tình chung thuỷ. Tình yêu đầu đời của nàng thật trong sáng, mãnh liệt. Nó khiến nàng dám vượt qua những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để đến với người yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình; cùng chàng Kim tình tự, trao nhau kỉ vật làm tin và thề nguyền gắn bó trăm năm:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Bỗng dưng sóng gió cuộc đời nổi lên dập dồn trong khoảnh khắc: gia biến, cướp ngày, quan tham, bán mình... Đến đêm, Kiều mới nghĩ đến bản thân: tình mình, tình người, cảnh mình, cảnh người. Nàng thức thâu đêm và khóc. Nghĩ tới sáng mai mình sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh ghê gớm cho chàng Kim. Nàng tự trách: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Không chỉ dở dang mà còn tan cửa nát nhà. Nghe qua tưởng như vô lí. Sao lại vì ta? Vì cả người nữa, vì người trước chứ! Nhưng Kiều cứ nghĩ như thế bởi Kiều chỉ nghĩ đến người yêu, thương người yêu, đau trước cái đau của người yêu. Còn mình, Kiều quên hết, nếu có nghĩ đến thì cũng cam chịu: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu...

Không chỉ thương, chỉ đau mà Kiều còn lo lắng nữa. Duyên mình đã lỡ, còn cái dở dang của người yêu thì sao? Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn phần nào là Thuý Vân sẽ thay mình đền đáp tình chàng:

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Duyên có thể trao, nhưng tình làm sao trao được? Nó như một món nợ mà nợ tình thì làm sao trả được? Sau khi cậy em, lạy em, hình dung ra cả lúc ngậm cười chín suối biết ơn em, đến lúc trao các kỉ vật thiêng liêng, cầu chúc cho em hạnh phúc thì Kiều không còn tỉnh táo nữa. Nàng trở lại hoàn toàn bản chất con người mình, cảm nhận đầy đủ nỗi đau của mình và thốt lên thống thiết:

Ôi Kim lang, hỡi Kim lang !

Thôi thối thiếp đã phụ chàng từ đây!

Lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim, nhưng trái tim nàng thì không thể.

Từ đó, bão tố cuộc đời vùi dập Thuý Kiều đến thảm thương: Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Bị dìm xuống tận bùn đen nhơ nhớp nhưng nàng vẫn không nguôi nhớ đến mối tình đầu với chàng Kim. Nhớ đêm: Vầng trăng vằng vặc giữa trời, nhớ lời thề son sắt nguyện ước ba sinh. Nhớ tình đã cũ nhưng nghĩa còn vương:

Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,

Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

Sau mười lăm năm, gặp lại Kim Trọng, hỏi còn niềm vui nào lớn hơn đối với Thuý Kiều?! Tái hợp, duyên cũ về với tình xưa là chuyện hiển nhiên, ấy vậy nhưng cũng bởi trân trọng tình mình, tình người mà Kiều buộc lòng phải: Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì. Trước sau, Kiều vẫn chấp nhận thiệt thòi, hi sinh hạnh phúc của mình cho người khác. Lòng thuỷ chung, đức vị tha cao cả ấy của Kiều thật đáng ngợi ca muôn đời.

Trong gia đình và xã hội, Thuý Kiều đều tỏ ra là người coi trọng nhân nghĩa. Trên bước đường đời phiêu bạt, kẻ áp bức đoạ đày nàng rất nhiều mà người xót thương, giúp đỡ cũng không ít, Kiều đều khắc cốt ghi tâm. Đến lúc báo ân báo oán, Kiều trả ân trước, báo thù sau. Thường tình, người ta ghi sâu oán hơn ân nên trả oán trước trả ân. Nhưng Kiều là con người trung hậu, vị tha, nghĩ đến người nhiều hơn nghĩ đến mình nên nàng trọng ân hơn oán.

Thúc Sinh, mụ quản gia, Kiều Nhi, vãi Giác Duyên... đều được nàng đền ơn rất hậu và đánh giá rất cao hành động tốt đẹp của họ trước đây đối với nàng:

Ngàn vàng gọi chút lễ thường,

Mà lòng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân?!

Việc báo ân của Kiều và tấm lòng nhân nghĩa của nàng dễ mấy ai sánh kịp. Người xưa nói: Ơn ai một chút chẳng quên, Oán ai một chút ghi bên dạ này. Kiều cũng vậy, báo ân xong xuôi, nàng mới trả thù và hành động trả thù của nàng cũng thật quyết liệt, ghê gớm. Trừ Hoạn Thư được Kiều tha vì lẽ này lẽ khác, còn cả lũ Mã, Sở, Tú Bà... đều phải chịu cảnh Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời, đúng như lời thề thốt trước đây của chính chúng. Đó là hợp với lẽ trời: Cho hay muôn sự tại trời. Kẻ gieo gió ắt phải gặt bão. Kẻ gây ra tội ác ắt phải đền tội giữa thanh thiên bạch nhật. Đó là quy luật và cũng là chân lí muôn đời.

Sau khi báo ân báo oán, mọi cơ cực, oan trái, gian truân của đời Kiều như được trút sạch. Từ địa vị thấp hèn, Kiều được nâng lên địa vị của một bậc phu nhân, một quan toà. Cuộc đời nàng từ đây tưởng tràn trề niềm vui và ánh sáng, nhưng éo le thay, như một định mệnh đã ghi trong số đoạn trường, Kiều lại rơi vào một tai hoạ khác mà nàng vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Vì tin lời hứa của Hồ Tôn Hiến, Kiều đã khuyên Từ Hải ra hàng. Kiều thực sự không muốn tiếp diễn cảnh Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu, không muốn Từ Hải phải tiếp tục sống ngoài vòng pháp luật và bản thân nàng cũng mong muốn sớm được sum họp với gia đình. Tên Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến đã đẩy đau thương của Kiều tới mức tột cùng. Nàng ân hận và chỉ còn một lối thoát duy nhất là tìm đến cái chết để chấm dứt cuộc đời và chuộc lại lỗi lầm. Cội nguồn sâu xa của hành động sai lầm này là lòng nhân ái, nhẹ dạ tin người. Suy xét kĩ, ta có thể thông cảm và tha thứ cho nàng.

Có lẽ cả Nguyễn Du lẫn người đọc đều không ai muốn người con gái tài sắc, đức hạnh nhường ấy phải chết trong sóng nước Tiền Đường. Cái kết thúc có hậu theo quan điểm nhân dân của tác giả đã đưa nàng trở về cõi sống, cho nàng đoàn tụ với người thân sau bao năm xa cách. Điều đó có làm giảm nhẹ đôi phần bi thương trong số phận nhân vật nhưng thật ra từ đây, Kiều tuy sống mà bóng dáng chỉ còn thấp thoáng sau màn khói sương hư ảo.

Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy tâm huyết của tác giả như máu chảy trên đầu ngọn bút. Tác giả dành bao yêu thương, trân trọng, xót xa cho nhân vật chính của mình - người con gái tài hoa mà bạc mệnh.

Truyện Kiều là tiếng kêu đứt ruột về thân phận con người - nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà nhân cách bị chà đạp, vùi dập thảm thương. Thuý Kiều là cô gái có nghĩa có tình. Mặc dù rơi vào cảnh ngộ éo le, đau khổ triền miên nhưng trong bối cảnh cuộc đời tăm tối ấy, phẩm giả Thuý Kiều vẫn thanh cao, rạng ngời. Có thể ví Thuý Kiều như một bông sen nở giữa đầm lầy. Phẩm hạnh quý giá ấy khiến cho hình tượng Thuý Kiều trở nên bất diệt. Nhân vật Thuý Kiều đã để lại cho chúng ta những bài học đạo lí thấm thía và bổ ích. Đó là giá trị nhân văn lớn lao của tác phẩm.