BÀI LÀM

1. L.Aragông (1897 - 1982) là nhà thơ, nhà tiểu thuyết lớn của thế giới, được coi là một trong những cánh chim đại bàng của văn học thế kỉ XX. Cuộc đời ông như một cuốn tiểu thuyết phức tạp. Bé đã mang thân phận bất hạnh của một đứa con hoang. Hai lần khoác áo lính (1917, 1939) để đủ nếm trải mọi mùi vị chiến tranh qua hai cuộc Đại chiến thế giới. Năm 1919 ông tham gia tổ chức văn học chủ nghĩa đa đa, chủ nghĩa siêu thực trong tâm trạng mệt mỏi chán chường. Năm 1927, 1928 là năm có nhiều sự kiện lớn trong đời L.Aragông: vào Đảng Cộng sản Pháp, gặp Enxa, rồi từ đó đến với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Sau 1950, tâm trạng ông lâm vào sự khủng hoảng kéo dài trước những diễn biến phức tạp ở nước Pháp và trên thế giới. Khi tròn 60 tuổi, ông vinh dự được nhận giải thưởng hòa bình Quốc tế Lê-nin (1957).

L.Aragông yêu văn chương say đắm. Từ 5, 6 tuổi ông đã chập chững sáng tác những trang tiểu thuyết đầu tiên. Ông đã để lại một khối lượng sáng tác khổng lồ trên nhiều phương diện: tiểu thuyết, thơ ca, tiểu luận phê bình... được liệt kê thành hai cuốn thư mục dài 282 trang.

Nhưng ở Aragông, tình yêu văn chương có sự gặp gỡ tuyệt diệu với tình yêu lứa đôi và tình yêu lí tưởng. Tình yêu của ông với Enza Toriôlê (1896 - 1970) – một phụ nữ Nga gốc Do Thái, em vợ của Malacôpxki – là sự kiện lớn nhất trong cuộc đời Aragông, là đôi cánh chắp cho hồn thơ ông bay lên bầu trời sáng tạo. Trước sau, Aragông vẫn được biết đến như một thi sĩ lớn: lớn hồn thơ và ở những tìm tòi đổi mới về nghệ thuật thơ. Ông xoay trở câu thơ, tìm cách bỏ các loại dấu chấm câu, phát triển câu thơ dài chưa từng thấy nhằm xóa nhòa ranh giới giữa thơ và văn xuôi, khiến câu thơ trở nên phóng khoáng mà gần gũi đời thường. Đặc biệt, Aragông ưa thích dùng biện pháp tu từ lặp đi lặp lại (nhưng có biến đổi) để gây ấn tượng mạnh về nghệ thuật. Bài Enxa trước gương (in trong tập Tiếng kèn trận Pháp, xuất bản 1946) như là sự kết tinh vẻ đẹp nhiều mặt của hồn thơ và tài thơ. L.Aragông.

2. Enza Tơriôlê đã trở thành hình tượng nghệ thuật phổ biến trong sáng tác của Aragông, là hình tượng tư tưởng dẫn dắt cuộc sống của ông:

Anh đã học từ em để hiểu nhân tình thế thái

Và từ đó anh nhìn thế gian theo cách em nhìn

(Áng văn xuôi về hạnh phúc và Enxa)

3. Người đàn bà kì diệu đó lại một lần nữa gây men ngây ngất trong Enxa trước gương của Aragông. Đặt trong bối cảnh của một nước Pháp thương đau, thi phẩm của Aragông vừa nồng nàn yêu đương, vừa xót xa u trầm. Điều đó tạo nên một không khí lạ bao trùm cả bài thơ: tĩnh lặng - hoàn toàn tĩnh lặng - mà đầy xôn xao...

3.1. Tĩnh lặng: Cả bài thơ không một âm thanh. Hình tượng được dựng lên bằng hoa, chân dung nữa được tạo nên bởi nét vẽ lặng lẽ: một dáng ngồi, một mái tóc, một chiếc gương, một cử động (chải tóc). Không khí bài thơ chìm trong sự tĩnh lặng đặc biệt ấy.

3.2. Xôn xao: Viên Mai, nhà lí luận thi ca (Trung Quốc) từng nói rất chí lí: “Thơ cốt đạm, chứ không cốt nồng, nhưng phải là cái đạm sau khi đã nồng”. Bài thơ của thi sĩ Pháp L.Aragông đã mang cái cốt cách phương Đông như thế. Cái tĩnh lặng bên ngoài của bài thơ chính là cái “đạm” ngầm chứa bên trong “cái nồng” của một ngọn núi lửa. Cái xôn xao núi lửa do mối quan hệ giữa bốn hình ảnh lặng lẽ trên tạo nên. Như vậy, sự tắt lặng âm thanh không gian đã chuyển thành cái âm thanh nội tâm nóng bỏng, càng làm nổi lên cái âm thanh nội tâm xôn xao, da diết với hai thủ pháp chính: tạo phép lặp và tạo quan hệ – điều thường thấy ở ngòi bút Aragông.

3.2.2. Tạo phép lặp: Trong thơ Aragông, lặp lại luôn gắn với biến đổi, làm hình ảnh vừa được khắc sâu, vừa có sự phát triển.

- Dáng ngồi Enxa: Được lặp lại 7 lần, có thay đổi vị trí trong cái khổ thơ (khổ 1: câu 2, khổ 2: câu 1 và câu 5, khổ 3: câu 3, khổ 5: câu 3, khổ 6: câu 2, khổ 9: câu 1). Dáng ngồi im lặng chìm trong một thời gian lặp lại triền miên, kéo dài (một ngày dài, suốt ngày, cứ thứ năm hàng tuần) gợi một không khí trầm tư nặng nề, mệt mỏi.

- Chiếc gương Enxa: Luôn gắn với dáng ngồi gợi chất nữ tính làm mềm lại không khí căng thẳng của bài thơ. Hình ảnh chiếc gương hai lần đột biến; gương đời (cuộc đời oái oăm như tấm gương soi), gương trí nhớ (một ngày dài ngồi soi vào trí nhớ). Sự đột biến tạo nên mối quan hệ giữa thực và ảo, khiến hình ảnh chiếc gương lung linh trong ý nghĩa biểu tượng: tấm gương, vừa là mảnh hồn Enxa, vừa là hình bóng cuộc đời.

- Mái tóc Enxa: Là hình ảnh đẹp nhất, rực rỡ nhất trong bài thơ, hé mở một nét chân dung đặc sắc của Enxa. Hình ảnh mái tóc gây ấn tượng mạnh bởi phép lặp (lặp lại 5 lần) đặc biệt được khai thác sâu về màu sắc lạ. Mái tóc luôn gắn với tính từ “vàng rực rỡ” tạo nên màu sắc mạnh tràn đầy sức sống. Mái tóc luôn được miêu tả qua các phép ẩn dụ để so sánh với “hoa lửa”, “ánh lửa”, “đám cháy” càng gợi lên sức sống mãnh liệt đến thiêu đốt. Mái tóc vàng rực rỡ như lửa của Enxa “bốc cháy” trong bài thơ, vừa là biểu tượng chung cho vẻ đẹp của người phụ nữ, vừa biểu tượng cho sức mạnh tình yêu nồng nhiệt, đầy cuốn hút đối lập hẳn với không gian bài thơ tình lặng đến u uất.

- Động tác chải tóc của Enxa: Cử động duy nhất trong bài thơ, vừa lặp lại như hành động quen thuộc đến đơn điệu trễ nải, vừa có sự phát triển bất ngờ. Động tác chải đi chải lại khiến mái tóc thêm mượt mà, để đột ngột bùng lên “hoa lửa”. Cách chải duyên dáng “như lơ đãng dạo khúc đàn êm ả” khiến người chải tóc mang vẻ đẹp nghệ sĩ. Bàn tay chải tóc miết trên đầu được bất ngờ liên tưởng tới một động tác tư duy, chải như muốn làm bật ra tư duy:

Chiếc lược rẽ đôi vầng lửa óng ánh nhiễu tơ

Và những vầng lửa này soi chỗ khuất hồn tôi

Từ chiếc lược, trí nhớ ùa ra, hướng về một thời bi kịch của nước Pháp, với “các diễn viên bi kịch” là những người đã chiến đấu và hi sinh trong chiến tranh ác liệt chống chủ nghĩa phát xít. Vẻ đẹp tình yêu riêng tư đột ngột gắn với nỗi niềm đất nước, tạo nên chiều kích lớn cho nội tâm Enxa.

3.2.2. Tạo quan hệ. Bài thơ chỉ phát lộ hết ý nghĩa trong mối quan hệ giữa thực và ảo của bốn hình ảnh trên. Tổng hợp lại, bốn hình ảnh đều hướng về Enxa, tạo ra hai tầng nghĩa. Thứ nhất: một Enxa đẹp rực rỡ nhưng đầy ưu tư trước nỗi đau nước Pháp. Thứ hai: một tình yêu mãnh liệt của Aragông dành cho sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp ngoại hình và nội tâm Enxa. Tình yêu không chỉ là riêng tư khi nó hòa trong sự đồng cảm với sự mất mát chung của dân tộc. Sự hòa điệu riêng - chung đã nâng đỡ cảm xúc bài thơ lên một tầm vóc lớn. Đó chính là dư ba trường tồn của thi phẩm Aragông.

4. Ấn tượng đặc biệt của Enxa trước gương là một bút pháp độc đáo đến táo bạo, giàu liên tưởng từ mái tóc Enữa mà thi sĩ mở ra cả một ngọn núi lửa.

Điều thú vị là ngọn núi lửa ấy từ một chỗ là sản phẩm riêng của Aragông, trở thành sản phẩm chung của những người dân nước Pháp có trái tim tha thiết với xứ sở của mình.