BÀI LÀM

Tình yêu quê hương đất nước là một nguồn thơ không bao giờ vơi cạn trong văn học nước ta. Đó là cảm hứng chủ đạo của thơ kháng chiến chống Pháp, nó thấm đượm trong từng ngòi bút thơ, đến từng bài thơ. Một cô gái Thăm lúa nhớ chồng, một Bài ca vỡ đất, những người lính Tây Tiến, những bà bầm, bà bủ, cho đến cả mối tình Núi đôi và tiếng súng Viếng bạn... tất cả đều được ủ nóng và chiếu sáng bằng tình quê hương đất nước. Trong mạch cảm hứng chung ấy, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Việt Bắc của Tố Hữu và Đất nước của Nguyễn Đình Thi nổi lên như những tiếng thở sâu lắng thiết tha, những gương mặt tiêu biểu nhất về quê hương Đất nước.

Những thi sĩ ấy trước hết cũng là những công dân yêu nước, những chiến sĩ cách mạng. Trước vận mệnh Tổ quốc lâm nguy, họ đeo ba lô từ giã quê hương lên đường đánh giặc. Tình quê hương đất nước cứ lớn dần theo năm tháng trên những nẻo đường kháng chiến, đem đến cho họ những cảm hứng chung về Tổ quốc: đau thương, căm giận khi Đất Nước quê hương bị giặc tàn phá, từ đó càng yêu quí Đất nước giàu đẹp, tự hào về dân tộc anh hùng - tình nghĩa và càng ra sức bảo vệ Tổ quốc thân yêu.

Nỗi đau Đất nước quê hương bị tàn phá hiện lên qua những vần thơ xót xa căm giận. Ở Bên kia sông Đuống, đó là những “ngày khủng khiếp” nhất: ruộng khô, nhà cháy, quán đổ, chợ tan... là mẹ già “bước cao thấp bên bờ tre hun hút” chạy trốn lũ giặc; là em bé trong mơ cũng “thon thót giật mình” bởi “bóng giặc giày vò những nét môi xinh”!... Với Nguyễn Đình Thi, nỗi đau được đúc lại trong gương mặt đất nước bị hủy diệt tàn bạo: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều”, trong số phận cực nhục của những người dân nô lệ:

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây, thằng chúa đất

Đứa đè cổ, đứa lột da.

Đó là nỗi đau khiến cho “gốc lúa bờ tre hồn hậu” cũng phải “bật lên những tiếng căm hờn”, và nỗi đau ấy đã biến thành lời nguyền phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội

Chúng ta không biết nguôi hờn

(Bên kia sông Đuống)

Việt Bắc không nói đến những nỗi đau như thế, bởi vì, bài thơ vừa là một khúc ca ân tình lại là một bài ca chiến thắng của một thời kì lịch sử. Quê hương cách mạng trong những ngày “trứng nước” gian nan hiện lên ngậm ngùi qua “miếng cơm chấm muối”, qua những “mái nhà hắt hiu lau xám”, và nhất là qua hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng - địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”...

Từ trong tôi đau ấy mà họ càng thêm yêu quí đất nước và tự hào về nhân dân. Bên cạnh âm hưởng xót xa căm giận là âm hưởng ca ngợi tự hào, và đây mới là cảm hứng chủ đạo của tình quê hương đất nước trong thơ. Đất nước hiện lên giàu đẹp và đáng yêu biết bao! Làm sao mà quên được dòng sông Đuống lấp lánh chảy giữa đôi bờ “ngô khoai biêng biếc”, “dâu mía xanh xanh”? Cũng như lòng ta đã in đậm những hình ảnh “Đất nước” đẹp giàu từ lúc nào không biết nữa? Những cánh đồng thơm mát – những ngả đường bát ngát - những dòng sông đỏ nặng phù sa... Và cả buổi sáng thu Hà Nội xao xuyến lòng người với hơi may xao xác, với hương cốm đầu mùa... Nhưng không phải chỉ có thế. Tố Hữu còn đem đến cho ta những bức tranh tuyệt diệu về quê hương cách mạng Việt Bắc. Có những bức tranh chan hòa màu sắc, đường nét, ánh sáng, âm thanh, đẹp như trong cảnh thần tiên:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trăng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng dọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Đất nước đẹp tươi ấy lại là nơi sinh ra một nhân dân anh hùng - tình nghĩa. Hoàng Cầm nhớ về những người du kích của quê hương đã làm cho giặc “phát điên, quay cuồng như xéo trên đống lửa” và những bà mẹ chiến sĩ đón con bộ đội về đêm, ấm áp tình quân dân kháng chiến. Ở Việt Bắc, đó là cảnh xuất quân “trùng trùng điệp điệp”, “bước chân nát đá” như đã cầm chắc chiến thắng trong tay. Và trong khúc ca ân tình ấy hiện lên những con người chứa chan tình nghĩa - của chẳng đáng là bao nhưng tình thì thật lớn.

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chặn sui đắp cùng.

Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi lắng nghe truyền thống bất khuất của cha ông vọng về để hiểu rõ hơn gương mặt của những người hôm nay:

Ôm Đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

Chỉ có điều những anh hùng đã làm nên gương mặt đất nước lại là những con người “hồn hậu như gốc lúa bờ tre” và trong “những đêm dài hành quân nung nấu” vẫn “bồn chồn nhớ mắt người yêu”. Những con người ấy đã giành lại đất nước từ tay quân thù để làm nên một đất nước chói lòa trong những ngày chiến thắng:

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Trên đây là cảm hứng chung về quê hương đất nước qua ba bài thơ. Nhưng tình yêu chân thật và sâu sắc bao giờ cũng có nội dung và sắc thái cụ thể, cá thể. Vì thế tình quê hương đất nước, tùy theo hoàn cảnh lớn của lịch sử dân tộc và hoàn cảnh nhỏ của mỗi đời sống cá nhân, mà có nội dung và sắc thái khác nhau. Điều này không hề phương hại đến cảm hứng chung mà trái lại, càng làm rõ thêm và phong phú thêm cái cảm hứng chung đó.

Cảm hứng riêng của từng thi sĩ đã dựng lên những gương mặt đất nước không giống nhau. Ở Bên kia sông Đuống, đất nước là quê hương Kinh Bắc cổ kính, tình đất nước là nỗi tiếc thương và căm giận trước những giá trị văn hóa của dân tộc, những sinh hoạt yên vui của nhân dân bị giặc tàn phá, là nỗi xót xa đau đớn trước những số phận bất hạnh của những con người đáng yêu, đáng quí trên quê hương mình. Hoàng Cầm nhớ về Bên kia sông Đuống là nhớ về một vùng quê văn hóa lâu đời với “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong - Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”, với tiếng chuông chùa ngân nga văng vẳng, với lễ hội tưng bừng rộn rã “trên núi Thiên Thai – trong chùa Bút Tháp - giữa huyện Lang Tài”. Nhưng nhớ nhất là những con người của vùng quê ấy, không thể nào lẫn được: những gương mặt búp sen, những làn môi cắn chỉ, và, ai đã một lần đọc Bên kia sông Đuống thì làm sao mà quên được cái nụ cười Kinh Bắc: “Những cô hàng xén răng đen – Cười như mùa thu tỏa nắng”. Ta hiểu vì sao nhà thơ lại “nhớ tiếc”, lại “xót xa như rụng bàn tay” khi quê hương hằn sâu vết giày đinh quân cướp nước, để rồi cái điệp khúc “đi đâu, về đâu” vang lên day dứt suốt bài thơ. Giặc không chỉ giết người, cướp của, mà còn tàn phá cả một vùng văn hóa cổ kính lâu đời, khiến cho “mẹ con đàn lợn âm dương - chia lìa trăm ngả - đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rũ – bây giờ tan tác về đâu”. Hoàng Cầm đã tố cáo tội ác của quân thù trong cái chiều sâu của nó, đến cái tận cùng của nó: tàn phá một vẻ đẹp cổ kính, một truyền thống thiêng liêng của dân tộc. Và vẻ đẹp Kinh Bắc ấy lại tiêu biểu cho mọi miền đất nước, và từ lâu, nó đã nằm sâu trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Bài thơ riêng mà lại chung là vì vậy.

Với Việt Bắc, đất nước là quê hương cách mạng, và bài thơ là khúc hát ân tình của con người kháng chiến với quê hương cách mạng, với nhân dân và với kháng chiến, cách mạng. Những tình cảm này đan dệt nhuần nhị với nhau mang đến cho bài thơ một sắc thái mới: tình cảm chính trị. Và tình cảm chính trị là nguồn thơ chủ yếu của Tố Hữu. Nhưng ông đã thể hiện nó một cách tự nhiên, đầy cảm hứng, bằng giọng điệu tâm tình dịu ngọt trong bài thơ này. Ông đã dùng lời của người yêu trong lối đối đáp giao duyên của ca dao dân ca: Mình về mình có nhớ ta... Lời người yêu để nói lên đạo lí dân tộc, tình nghĩa nhân dân và nhất là tình nghĩa kháng chiến và cách mạng. Toàn bộ bài thơ là một lời nhắc nhở: đừng quên, xin đừng quên! Đừng quên tấm lòng son đã hiến dâng tất cả cho cách mạng trong những ngày gian khổ nhất. Đừng quên những mái nhà hắt hiu lau xám, đừng quên những địa danh đã đi vào lịch sử: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào... Đừng quên cả từng củ sắn ngọt bùi, từng bát cơm sẻ nửa. Và nhất là đừng quên cuộc sống kháng chiến, hãy biết giữ vững truyền thống cách mạng trong bất cứ hoàn cảnh nào: Phố đông còn nhớ bản làng - Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng? Tố Hữu nhắc nhở mọi người mà cũng là nhắc nhở chính mình và những tình cảm chính trị đã đến với họ như những tiếng ru ngọt ngào, sâu lắng. Vì thế, quê hương cách mạng Việt Bắc đã trở thành quê chung của mỗi một người Việt Nam yêu nước.

Khác với hai bài trên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một đất nước tổng hợp, khái quát. Thi sĩ không nói về một quê hương cụ thể nào. Những hoài niệm về mùa thu Hà Nội chỉ để tạo cảm hứng cho bài thơ, làm cho mạch thơ tuôn chảy. Đó là một cảm hứng mang tính sử thi - tổng hợp – khái quát, bắt nguồn từ truyền thống dân tộc và phát triển theo diễn tiến của lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng này đã “chín” sau tám năm trời ấp ủ, nghiền ngẫm, trải nghiệm trong cuộc kháng chiến của nhân dân để trào ra mãnh liệt trong những ngày chiến thắng giặc Pháp thành một tượng đài đất nước bằng thơ: một đất nước hiền hòa mà bất khuất, tình nghĩa mà anh hùng một đất nước đã trưởng thành, tỏa sáng! Tình đất nước ở đây gắn bó với tình cảm cách mạng, với niềm vui giải phóng, với ý thức tự hào của người làm chủ và quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ quê hương đất nước mình. Gương mặt đất nước, vì thế, được chiếu rọi bằng những sắc màu mới: Đất nước của nhân dân, đất nước của Cách mạng. Đất nước ấy đã đến với chúng ta bằng giọng thơ trầm hùng, mạch thơ cuộn chảy, những hình ảnh cô đúc và giọng thơ trầm hùng, mạch thơ cuộn chảy, những hình ảnh cô đúc và ngôn ngữ kết tinh. Tất cả những điều này, suy cho cùng, cũng đều do cái cảm hứng sử thi ấy tạo nên từ một hồn thơ yêu nước cách mạng.

Ba bài thơ là ba gương mặt đẹp về Tổ quốc: một vùng đất Kinh Bắc dân gian cổ kính, một quê hương cách mạng tình nghĩa anh hùng, một đất nước trưởng thành tỏa sáng. Không chỉ giúp ta hiểu rõ thêm đất nước và con người Việt Nam mà nó còn rung lên trong lòng ta những tình cảm nồng nàn tha thiết nhất về quê hương đất nước. Ba bài thơ như những hành trang tinh thần sẽ theo ta đi suốt cuộc đời trên những nẻo đường dựng xây đất nước.