ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. - Xem (*) phần Chú thích trang 54.
- Tên truyện:
+ Nói về buổi học tiếng Pháp cuối cùng.
+ Sau này sẽ có những thầy cô khác dạy những buổi học khác bằng tiếng Đức, không phải bằng tiếng mẹ đẻ thì đó không còn là buổi học nữa. Lưu ý câu nói của thầy Ha-men: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù...” để hiểu thêm dụng ý của tên truyện.
2. - Truyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật Phrăng là một cậu học trò kể lại buổi học cuối cùng này.
- Truyện còn có nhiều nhân vật nữa như bác phó rèn Oát-stơ; cụ già Hô-đe, xã trưởng cũ, bác phát thư cũ, những người dân vùng An-dát, những người lính Đức. Nhưng nhân vật gây ấn tượng nổi bật ở đây là thầy Ha-men.
3. Buổi học bình thường:
• Tiếng ồn ào như vỡ chợ...
• Tiếng mọi người vừa đồng thanh...
• Tiếng chiếc thước kẻ to tướng
Buổi học cuối:
• Mọi người bình lặng y như buổi sáng chủ nhật
→ không khí khác lạ.
4. Ý nghĩ, tâm trạng của chú bé Phrăng:
Tôi hơi hoàn hồn ngạc nhiên choáng váng tự giận mình, chăm chú nghe giảng, tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này. Sự thay đổi về thái độ, tình cảm, ý nghĩ của Phrăng là từ ham chơi, lười và ngại học tiếng Pháp đã biết yêu quý và ham thích học tốt tiếng Pháp.
5. Thầy Ha-men:
a) Trang phục: mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, điểm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ toàn bằng lụa đen thêu.
b) Thái độ với học sinh: giọng dịu dàng, trang trọng.
c) Hành động:
+ Trong buổi học:
- Nói với chúng tôi bằng tiếng Pháp cần một quyển sách ngữ pháp, đọc bài học kiên nhẫn giảng giải chuẩn bị những tờ mẫu mới tinh, viết bảng "chữ rông” rất đẹp.
- Đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn... vẫn đủ can đảm dạy hết buổi.
- Nhận xét: Buổi học mang tính trang trọng thiêng liêng.
+ Cuối buổi học:
- Đứng trên bục, người tái nhợt nghẹn ngào cầm phấn và dằn mạnh hết sức... cố viết thật to.
- Đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu.
- Nhận xét: Lòng yêu nước, ý thức tôn trọng tiếng Pháp ở thầy thật mạnh mẽ. Nó là liều thuốc làm khơi dậy tình yêu nước ở mọi người trong hoàn cảnh quê hương bị chiếm đóng.
6. - Một số câu văn dùng phép so sánh:
+ Tất cả những cái đó (nghe sáo hót, nhìn lính Phổ tập) cám dỗ tôi hơn là các quy tắc về phân từ.
+ Tiếng ồn ào như vỡ chợ.
+ Mọi sự đều bình lặng y như buổi sáng chủ nhật.
+ Dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi.
- Tác dụng: xem trang 42 và học sinh tự trả lời.
7. Học sinh thảo luận: Lưu ý câu hỏi 1 trang 54.
LUYỆN TẬP
1. Buổi sáng hôm ấy cậu bé Phrăng chưa thuộc bài ngữ pháp nên định trốn học rong chơi. Không hiểu sao cậu cũng đến trường. Dọc đường, cậu thấy nhiều sự lạ. Đến lớp lại càng lạ hơn. Không khí rất trang nghiêm. Thầy giáo Ha-men ăn mặc rất trang trọng, cư xử với Phrăng rất yêu thương, dân làng ngồi chật lớp... Thì ra đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Thầy giáo giảng dạy như là một nghi lễ tôn giáo và nêu lên chân lí phải bảo tốn tiếng nói dân tộc ngay cả khi mất nước, ngay cả khi kẻ thù không cho dạy tiếng mẹ đẻ.
2. Tôi đã run lẩy bẩy khi nghe thầy gọi lên đọc. Tôi đành đứng chết trân, ú ớ vài ba tiếng rồi gằm mặt nhìn bàn chân mình không chịu đứng yên trên sàn nhà.
Chẳng thà như mọi khi, thầy gọi tôi quỳ xuống và cho ăn vài ba cái thước kẻ to tướng vào mông. Đằng này thấy im lặng rất lâu và nhận lỗi về mình. Thấy hối hận bởi những lần đi câu, đi bách bộ dạo chơi trong rừng... Nếu phải chi thời gian đó thầy kèm cặp tôi, nếu phải chi thầy bớt nghiêm khắc hơn với tôi.
Tôi ngước đôi mắt mọng đầy nước nhìn thấy. Thầy cũng gỡ kính đeo mắt lấy mùi-soa chấm chấm. Ở ghế cuối cùng cụ xã trưởng Hô de bỗng bật khóc, quyển sách tiếng Pháp sờn mép cụ cầm trong tay cũng run lên. Tôi nghe thấy tiếng gù của đôi chim bồ câu trên mái thật não nề...