I. TÌM HIỂU TÁC PHẨM

1. Bố cục

Đại cáo bình Ngô gồm bốn đoạn, mỗi đoạn đều có trọng tâm, tất cả đều hướng tới tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt là tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với yêu nước độc lập dân tộc.

- Đoạn 1 (“Từng nghe... Chứng cớ còn ghi”): Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí độc lập dân tộc của Đại Việt (nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm lược).

- Đoạn 2 (“Vừa rồi... Ai bảo thần dân chịu được”): Tố cáo, lên án tội ác giặc Minh.

- Đoạn 3 (“Ta đây... Cũng là chưa thấy xưa nay”): Kể lại diễn biến của cuộc chiến từ mở đầu đến thắng lợi hoàn toàn, nêu cao sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa và sức mạnh của lòng yêu nước kết tinh thành sức mạnh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

- Đoạn 4 (“Xã tắc từ đây vững bền... Ai nấy đều hay”): Tuyên bố chiến quả rút ra bài học lịch sử.

2. a) Hoàn cảnh và đặc trưng cơ bản của thể cáo (dựa vào Tiểu dẫn trong SGK).

3. Phân tích hiệu quả nghệ thuật nhan đề Đại cáo bình Ngô. Phần Tiểu dẫn trong SGK đã giải thích vì sao Nguyễn Trãi lại đặt nhan đề bài văn là Đại cáo bình Ngô, khi giảng. Hiệu quả nghệ thuật của nhan đề là:

- Đại cáo: không phải là bài cáo thường mà là bài đại cáo mang tính chất quốc gia trọng đại.

- Dùng từ Ngô để chỉ giặc Minh: gợi lên được sự khinh bỉ và lòng căm thù của nhân dân ta đối với giặc phương Bắc đã có từ ngàn xưa để rồi dồn lên đầu kẻ thù trước mắt là giặc Minh xâm lược.

II. PHÂN TÍCH BÀI ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ THEO KẾT CẤU

Phân tích đoạn 1

Nguyễn Trãi nêu nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài Cáo.

Trong nguyên lí chính nghĩa của Nguyễn Trãi, có hai nội dung chính được nêu lên: Tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt.

- Tư tưởng nhân nghĩa

+ Là tư tưởng có tính chất phổ biến, mặc nhiên thừa nhận thời bấy giờ. “Nhân nghĩa” được nhiều người giải thích; cách nói, cách hiểu đôi khi khác nhau nhưng nhìn chung mọi người đều thừa nhận “nhân nghĩa” là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. “Nhân nghĩa” là “yên dân trừ bạo”, tức là tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống yên bình của người dân. Cần nhấn mạnh, Nguyễn Trãi đã biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực nhất trong tư tưởng nhân nghĩa: chủ yếu để yên dân, trước nhất là trừ bạo.

+ Nguyễn Trãi đã lấy ra từ thực tiễn dân tộc để đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới: nhân nghĩa phải gắn liền với chống xâm lược. Nội dung này trong quan niệm Khổng - Mạnh và Nho gia Trung Quốc hầu như ít thấy. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa, có như vậy mới bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch, mới phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc xâm lược là phi nghĩa.

- Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam là một chân lí khách quan phù hợp với nguyên lí đó.

+ Sau khi nêu tư tưởng nhân nghĩa, tác giả nêu chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt. Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn lịch sử. Bản dịch đã cố gắng lột tả tính chất hiển nhiên, vốn có, lâu đời của nước Đại Việt tồn tại độc lập bằng các từ: “từ trước”, “vốn xưng”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác” (Nguyên văn: “duy ngã”, “thực vi”, “kí thù”, “diệc dị”).

+ Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền của dân tộc: cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời, và thêm nữa là lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt đời nào cũng có”.

+ So sánh với bài thơ Sông núi nước Nam để thấy được ý thức độc lập dân tộc ở Đại cáo bình Ngô toàn diện và sâu sắc hơn.

• Toàn diện vì ý thức độc lập dân tộc trong Sông núi nước Nam được xác định chủ yếu trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền, còn đến Đại cáo bình Ngô, một số yếu tố nữa được bổ sung: văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử.

• Sâu sắc vì trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến, truyền thống lịch sử là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc.

+ Từ “đế” trong nguyên văn chữ Hán: “Các đế nhất phương” nghĩa là vua thiên tử, duy nhất, toàn quyền.

Trong Nam quốc sơn hà, khẳng định “Nam đế” tác giả nhằm mục đích đối lập với “Bắc đế”, phủ nhận tư tưởng: “Trời không có hai mặt trời, đất không có hai hoàng đế”. Mục đích đó dù sao cũng chưa phải được phát biểu bằng cách so sánh trực tiếp như Nguyễn Trãi đã làm. Lí do là phải đến thời Nguyễn Trãi, sau khi đã có bốn thế kỉ giành độc lập, sau khi đã có những triều đại tồn tại ngang hàng với các triều đại phương Bắc thì Nguyễn Trãi mới có đủ tiền đề lịch sử để so sánh, chứng minh. Lại nữa, tác giả Nam quốc sơn hà khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc đã dựa vào “thiên thư” còn Nguyễn Trãi dựa vào lịch sử. Đó là bước tiến của tư tưởng thời đại, nhưng đồng thời cũng là tầm cao của tư tưởng Ức Trai.

Phân tích đoạn 2: Bản luận tội đanh thép

- Chỉ bằng mười hai cặp tứ lục gồm hai mươi bốn câu, tác giả đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép tội ác của giặc Minh với một trình tự rất lôgic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác.

- Nguyễn Trãi chỉ rõ âm mưu cướp nước ta của giặc Minh, vạch trần luận điệu bịp bợm “phù Trần diệt Hồ” của chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân - đúng hơn chỉ là một nguyên cớ để giặc Minh thừa cơ gây họa. Những từ “nhân”, “thừa cơ” trong bản dịch đã góp phần lột trần luận điệu giả nhân giả nghĩa của giặc. “Phù Trần diệt Hồ” chỉ là một cách “mượn gió bẻ măng”. Âm mưu thôn tính nước ta vốn có sẵn, có từ lâu trong đầu óc của “thiên triều”.

- Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân bản.

Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi không tố cáo chủ trương đồng hóa của kẻ thù. Tác giả đi sâu tố cáo những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh: hủy hoại cuộc sống con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội “nướng dân đen”, “vùi con đỏ”, bằng sự hủy hoại môi trường sống: “Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”, “Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”... Người dân vô tội trong tình cảnh bi đát đến cùng cực, không còn đường sống. Cái chết đợi họ trên rừng, cái chết đợi họ dưới biển, đúng như lời bài Cáo: “chốn chốn lưới chăng”, “nơi nơi cạm đặt”.

- Nghệ thuật viết cáo trạng: dùng hình tượng để diễn tả tội ác kẻ thù:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Trước vô số tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta thời bấy giờ, Nguyễn Trãi đã khái quát lại trong hai hình tượng “nướng dân đen”, “vùi con đỏ”. Hình tượng này vừa diễn tả một cách rất thực tội ác man rợ kiểu trung cổ của giặc Minh, vừa mang tính khái quát có ý nghĩa khắc vào bia căm thù để muôn đời nguyền rủa quân xâm lược.

Đối lập với tình cảnh người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù xâm lược: “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán...”. Câu văn đã khắc họa bộ mặt quỷ sứ khát máu người của quân xâm lược.

Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc, để nói lên khối căm hờn chất chứa của nhân dân ta, Nguyễn Trãi kết thúc bản cáo trạng bằng câu văn đầy hình tượng:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa hết mùi.

Lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để nói cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự nhơ bẩn của kẻ thù), câu văn đầy hình tượng và đanh thép đó đã cho ta cảm nhận sâu sắc tội ác: “Lẽ nào trời đất dung tha, - Ai bảo thần dân chịu được?” của giặc Minh xâm lược.

Lời văn trong bản cáo trạng đanh thép, thống thiết: khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết, lúc muốn thét thật to, lúc nghẹn ngào, tấm tức,... cùng một lúc diễn tả được những biểu hiện khác nhau nhưng luôn gắn bó với nhau trong tâm trạng, tình cảm con người.

Đứng trên lập trường nhân bản, hơn nữa đứng về quyền sống của người dân vô tội để tố cáo, lên án giặc Minh, Đại cáo bình Ngô chứa đựng những yếu tố của bản tuyên ngôn nhân quyền.

Phân tích đoạn 3

Đây là đoạn văn dài nhất bài cáo, có ý nghĩa như bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn này chia làm hai phần tương ứng với hai giai đoạn của cuộc khởi nghĩa.

- Phản ánh giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, tác giả chủ yếu tập trung khắc họa hình tượng Lê Lợi, chủ yếu là hình tượng tâm lí với bút pháp trữ tình kết hợp với tự sự. Đây quả là vấn đề có ý đồ nghệ thuật: qua hình tượng một con người mà khắc họa được những khó khăn gian khổ và ý chí quyết tâm của toàn dân tộc.

- Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất giữa con người bình thường và lãnh tụ cuộc khởi nghĩa: bình thường từ nguồn gốc xuất thân (“chốn hoang dã nương mình”), đến cách xưng hô khiêm nhường (đại từ “dư” với nghĩa là “tôi”, “ta”, chưa phải là “trẫm” như sau này). Nhưng Lê Lợi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc (“há đội trời chung”, “thề không cùng sống”), có lí tưởng hoài bão lớn (“Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông”), có quyết tâm cao thực hiện lí tưởng (“đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”; “Những trằn trọc trong cơn mộng mị chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”). Qua sự tái hiện hình tượng Lê Lợi - con người bình thường và người anh hùng, tác giả đã phần nào nói lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

- Qua hình tượng Lê Lợi, tác giả nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vượt qua gian khổ, khó khăn và sức mạnh chiến thắng. “Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh”, Lê Lợi cũng nghĩa quân phải vượt qua muôn ngàn khó khăn gian khổ: thiếu nhân tài, thiếu quân, thiếu lương, nhưng nhờ “tấm lòng cứu nước”, nhờ “gắng chí khắc phục gian nan” và nhất là nhờ “manh lệ chi đồ tứ tập”, nhờ “phụ tử chi binh nhất tâm”, cuộc khởi nghĩa đã vượt qua khó khăn buổi đầu để đi đến tổng phản công giành thắng lợi.

- Trong bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử này, Nguyễn Trãi đã tuyên ngôn về vai trò và sức mạnh của người dân - những người manh lệ (manh: người dân cày lưu tán, lệ: người tôi tớ, đi ở):

Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập

Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

Đó là một tư tưởng lớn. Trong một bản tuyên ngôn trọng đại như Đại cáo bình Ngô, những người manh lệ được nói đến một cách công khai, trang trọng như vậy "cũng là chưa thấy xưa nay”.

- Phản ánh giai đoạn hai của cuộc khởi nghĩa, tác giả dựng lên bức tranh toàn cảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với bút pháp nghệ thuật đậm chất anh hùng ca. Từ hình tượng đến ngôn ngữ, từ màu sắc đến âm thanh nhịp điệu, tất cả đều mang đặc điểm của bút pháp anh hùng ca. Những hình tượng phong phú, đa dạng, đo bằng sự lớn rộng, kì vĩ của thiên nhiên: Chiến thắng của ta: “sấm vang chớp giật”, “trúc chẻ tro bay”, “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch lá khô”, “sụt toang đê vỡ”. Sức mạnh của ta: “đá núi cũng mòn”, “nước sông phải cạn”. Thất bại của địch: “máu chảy thành sông”, “máu trôi đỏ nước”, “thây chất đầy nội”, “thấy chất đầy đường”. Khung cảnh chiến trường: “sắc phong vẫn phải đổi”, “ánh nhật nguyệt phải mờ”. Về mặt ngôn ngữ, trong nguyên văn cũng như bản dịch, các động từ mạnh liên kết với nhau thành những chuyển rung dồn dập, dữ dội. Các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng trắng, đen đối lập, thể hiện cái thế, cái đà chiến thắng của ta và cái đà thất bại của địch. Câu văn khi dài, khi ngắn, biến hóa linh hoạt trên cái nền chung là nhạc điệu dồn dập, sảng khoái, bay bổng. Âm thanh giòn giã, hào hùng, như sóng trào, bão cuốn. Nhịp mạnh, dồn dập là xương sống của đoạn văn. Đó là nhịp của triều dâng, sóng dậy, hết lớp này đến lớp khác:

Ngày mười tám...

Ngày hai mươi...

Ngày hăm lăm...

Ngày hăm tám...

Đó là nhịp của gió lay, bão giật, hết trận này đến trận khác:

Gươm mài đá, / đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, / nước sông phải cạn.

Đánh một trận, / sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận, / tan tác chim muông.

- Xen giữa bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là hình ảnh kẻ thù xâm lược. Mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh nhưng đều giống nhau ở một điểm: ham sống sợ chết đến hèn nhát. Mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh, có bao nhiêu thái độ, tâm trạng thì Nguyễn Trãi có bấy nhiêu từ ngữ để biểu hiện.

- Hình tượng kẻ thù thảm hại, nhục nhã càng tôn thêm khí thế hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha tội chết, được tạo điều kiện để sống (đúng là “dĩ chí nhân dịch cường bạo”), Nguyễn Trãi càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Phân tích đoạn 4

- Trong lời kết thúc bài Đại cáo bình Ngô, quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi thay Lê Lợi trịnh trọng và vui mừng truyền đi lời tuyên bố nền độc lập tự do của dân tộc đã được lập lại: “Xã tắc từ đây vững bền... Ngàn thu vết nhục sạch làu”.

- Tác giả rút ra bài học lịch sử: sự thay đổi nhưng thực chất là sự phục hưng (“bĩ mà lại thái”, “hối rồi lại minh”) là nguyên nhân, là điều kiện để thiết lập sự vững bền. Trong sáu câu, có hai câu nói tới sự vững bền (“Xã tắc từ đây vững bền”, “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”) và bốn câu nói tới sự thay đổi. Sự vững bền xây dựng trên cơ sở đã phục hưng dân tộc, cho nên viễn cảnh của đất nước hiện ra thật tươi sáng, huy hoàng: “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.

- Sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại: có hiện thực hôm nay và tương lai ngày mai là bởi “nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ”, nhờ có chiến công trong quá khứ: “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm”.

Trong lời tuyên bố kết thúc, cảm hứng về độc lập dân tộc và tương lai đất nước đã hòa quyện với cảm hứng về vũ trụ khi “bĩ”, khi “hối” nhưng quy luật là hướng tới sự sáng tươi, phát triển, càng khắc họa sâu đậm niềm tin và quyết tâm của nhân dân Đại Việt xây dựng “đài xuân dân tộc” khi vận hội duy tân đã mở.