1. Bố cục đoạn trích có thể chia thành ba đoạn

- Đoạn 1 (“Biết bao... tối tìm Trường Khanh”): Giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều.

- Đoạn 2 (“Khi tỉnh rượu... nào biết có xuân là gì”): Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy.

- Đoạn 3 (“Đòi phen... mặn mà với ai?”): Tả cảnh để diễn tả tâm tình cô đơn, đau khổ của Kiều.

2. Bút pháp ước lệ ở đây chỉ những hình ảnh bướm ong, cuộc say, trận cười, những điển cố, điển tích được sử dụng như Tống Ngọc, Trường Khanh. Chúng giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫn tả thực, không né tránh số phận thực tế của nhân vật chính (do đó tạo nên chất phê phán hiện thực của tác phẩm) mặt khác, vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Kiều, qua đó thể hiện thái độ trân trọng, đầy cảm thông của mình đối với nhân vật. Thái độ này là nhất quán trong toàn tác phẩm.

3. Các hình thức đối xứng được Nguyễn Du khai thác triệt để trong đoạn trích nhằm tô đậm nỗi thương thân xót phận của nhân vật. Đối xứng ở cấp thấp nhất là tiểu đối trong bốn chữ: bướm lả/ong lơi, lá gió/cành chim, dày gió/dạn sương, bướm chán/ong chường, mưa Sở/mây Tần, gió tựa/ hoa kề. Đây là thủ pháp chẻ những cụm từ thông thường tạo thành quan hệ đối xứng nhằm nhấn mạnh mức độ cao hơn của nội dung cụm từ không tiểu đối. So sánh bướm ong lơi lả với bướm lả ong lơi: tách hai yếu tố bướm và ong, lả và lơi ra và đặt ở thế đối xứng, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ được tô đậm, nhấn mạnh hơn, gây cảm giác xót xa hơn.

Đối xứng ở cấp tiểu đối trong khuôn khổ một câu: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh; Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu. Đối xứng kiểu này có giá trị nhấn mạnh sự liên tục, kéo dài của sự vật hay cái mênh mông của không gian.

Đối xứng tạo nên giữa hai câu thơ lục bát: Khi sao phong gấm rủ là/ Giờ sao tan tác như hoa giữa đường (đối lập gay gắt giữa quá khứ êm đềm hạnh phúc và hiện tại đầy nghiệt ngã); Mặt sao dày gió dạn sương. Thân sao bướm chán ong chường bấy thân! (nhấn mạnh có ý so sánh: thân thể còn đau khổ hơn là sự bẽ bàng chua chát trên vẻ mặt); Mặc người mưa Sở mây Tần/ Những mình nào biết có xuân là gì (đối lập người/ta). Các hình thức đối xứng này có chức năng khác nhau tùy theo mỗi cặp đối, nhưng đều có tác dụng nhấn mạnh ý cần nói, tạo điều kiện nhìn nỗi niềm thương thân xót phận của nhân vật từ nhiều góc nhìn khác nhau (chuyển đổi góc nhìn). Trong một khuôn khổ hết sức cô đọng của câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã có thể khai thác triệt để các khả năng tu từ để “tăng năng suất” tối đa.

4. “Nỗi thương mình" có một ý nghĩa sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu, nhẫn nhục. Khi nhân vật “giật mình mình lại thương mình xót xa” thì điều này đã bao hàm ý nghĩa sự tự ý thức về mình một cách sâu sắc. Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách bản thân, tức ý thức về quyền sống bản thân. Thương thân, xót thân là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn. Mặt khác, sự thương mình đó là nền tảng vững chãi của lòng thương người. Văn học dân gian nói “thương người như thể thương thân” là vì thế, không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân.

5. Tranh luận về việc Kiều “trinh” hay “dâm” là một vấn đề trong lịch sử đọc Truyện Kiều. Đoạn trích này cho thấy, tâm hồn Kiều là cao thượng, trong trắng mặc dù Kiều sống giữa chốn bùn nhơ. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, nhưng nhà thơ nhân đạo vĩ đại đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng chính việc tả nỗi buồn, nỗi đau khổ, chán chường của nàng giữa chốn “hội tanh hại người”.