6. ÁNH TRĂNG
6.1. Những điều cần lưu ý về tác giả và tác phẩm
6.1.1. Tác giả
- Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, ông sinh năm 1948, quê ở Thanh Hoá
- Ông thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trước cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Sau chiến tranh, Nguyễn Duy vẫn say sưa và tiếp tục con đường thơ của mình. Thơ ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu "quen thuộc mà không nhàm chán".
- Thơ Nguyễn Duy có giàu chất triết lí, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư.
- Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ 1973), Ánh trăng (thơ 1984), Mẹ và em (thơ 1987)...
- Tác giả đã được nhận các giải thưởng: Giải nhất thơ tuần báo "Văn nghệ" (1973); Giải A về thơ của Hội nhà văn Việt Nam (1985).
6.1.2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. (Ba năm sau ngày kết thúc chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước).
b. Chủ đề:
Thông qua hình tượng nghệ thuật "Ánh trăng" và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa.
c. Thể thơ - Phương thức biểu đạt
Thể thơ 5 chữ - phù hợp với phương thức biểu đạt kết hợp hài hoà giữa biểu cảm (trữ tình) và tự sự.
d. Tính đa nghĩa trong nhan đề bài thơ
- Ánh trăng của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Đó là vầng trăng của “hồi nhỏ sống với đồng”. Ánh trăng gắn với tuổi ấu thơ của tác giả. Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất trời.
- Nhan đề “Ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình - kí ức gắn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cam go mà hào hùng.
- Vầng trăng mang chiều sâu tư tưởng, là lời nhắc nhở thái độ sống "uống nước nhớ nguồn", ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
6.2. Bài luyện tập
6.2.1. Bài tập 1
Phân tích bốn khổ thơ đầu bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy để thấy được câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng
Gợi ý
Với nội dung này giáo viên có thể chia ra thành nhiều bài tập nhỏ: chỉ viết đoạn văn phân tích hai khổ thơ đầu, phân tích từng khổ, hoặc phân tích cả 4 khổ.
* Qua hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ.
- Bốn câu thơ ngắn với giọng kể thủ thỉ, tâm tình "hồi nhỏ", "hồi chiến tranh" đã gợi lại một quãng thời gian dài từ thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành.
- Cuộc sống vất vả gian lao nhưng gần gũi với thiên nhiên: "Với đồng", "với sông", "với bể", "ở rừng".
- Trong dòng hồi tưởng, tác giả đã khái quát vẻ đẹp của cuộc sống bình dị, vô tư, hồn nhiên và khẳng định tình cảm gắn bó bền chặt của con người với vầng trăng là "tri kỉ", "tình nghĩa".
+ Trăng là người bạn chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những đau thương, nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu.
+ Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hoà tình nghĩa.
- Với sự gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm "không bao giờ quên". Giọng thơ hồi tưởng đều đặn nhưng từ "ngỡ" như báo hiệu trước sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện của nhà thơ.
* Khổ thơ thứ ba đưa người đọc trở về hiện tại với những đổi thay trong mối quan hệ của nhà thơ với vầng trăng.
"Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.”
- Tác giả đã tạo ra sự đối lập về hoàn cảnh sống của con người trong hiện tại với quá khứ. "Ánh điện cửa gương" là cách nói hoán dụ tượng trưng cho cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên.
- Từ đó nhà thơ diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người: “Vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa” trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn "đi qua ngõ" nhưng con người hờ hững, thờ ơ, không còn nhận ra trăng đã từng là người bạn tri kỉ, tình nghĩa một thời.
- Câu chuyện tâm tình được kể rất giản dị, mộc mạc, nhịp thơ chậm, những chữ đầu câu thơ không viết hoa diễn tả dòng suy nghĩ miên man của nhà thơ.
* Khổ thơ thứ tư là một tình huống bất ngờ xảy ra làm chuyển mạch cảm nghĩ của tác giả.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
- Bốn câu thơ với hai từ “thình lình” “đột ngột” được đảo trật tự, tạo nên nhịp thơ nhanh, nhấn mạnh sự việc bất thường: “đèn điện tắt, phòng tối om” đối lập với “vầng trăng tròn” toả sáng.
- Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ.
- Trăng thiên nhiên không phải chỉ khi đèn tắt mới “đột ngột” xuất hiện. “Đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc thảng thốt, bất ngờ của nhà thơ khi nhận ra trăng vẫn tròn, vẫn toả sáng, vẫn đồng hành cùng con người...
6.2.2. Bài tập 2
Tám câu thơ cuối trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây được ấn tượng rất mạnh với bạn đọc:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng.
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình... ”
a. Nếu phân tích hai khổ thơ này, em dự kiến có mấy luận điểm. Nêu ngắn gọn tiêu đề của các luận điểm.
b. Chỉ ra các “điểm sáng nghệ thuật” cần khai thác ở mỗi luận điểm. Nêu tác dụng của các “điểm sáng nghệ thuật” đó.
c. Viết thành một đoạn văn hoàn chỉnh để phân tích 8 câu thơ trên.
Gợi ý
- Sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ.
- Những suy ngẫm sâu sắc và triết lí của nhà thơ qua hình tượng trăng
b. Các điểm sáng nghệ thuật cần phân tích:
- Từ nhiều nghĩa “mặt”.
- Nghệ thuật so sánh.
- Hình ảnh biểu tượng: Trăng tròn vành vạnh.
- Nghệ thuật nhân hoá: Trăng im phăng phắc
- Từ ngữ: “rưng rưng”, “giật mình”
- Tác dụng.
c. Phân tích tám câu thơ trên.
* Mở đoạn: Học sinh vận dụng phần kiến thức về tác giả, tác phẩm để mở bài, giới thiệu bài thơ và giới thiệu nội dung khái quát (theo luận điểm trên) của hai khổ thơ cần phân tích.
* Thân đoạn:
- Sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng”
- Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng "Ngửa mặt lên nhìn mặt". Từ "mặt" cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa nghĩa của ý thơ.
+ Nhà thơ đối diện với mặt trăng, người bạn tri kỉ mình đã lãng quên để tự thú về sự bội bạc của mình.
+ Đối diện với trăng nhà thơ như nhìn thấy cả mặt mình trong đó và tự vấn lương tâm, hổ thẹn, ân hận về sự đổi thay của mình.
- Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc ấy đã làm nhà thơ "rưng rưng" xúc động vì quá khứ vất vả gian lao nhưng tràn ngập niềm vui cùng với trăng, với thiên nhiên bấy lâu tưởng đã lãng quên bỗng ùa về trong nỗi nhớ, "rưng rưng” như nghẹn ngào muốn khóc ...
* Những suy ngẫm sâu sắc và triết lí của nhà thơ qua hình tượng trăng.
- Trăng đã trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không thay đổi. "trăng tròn vành vạnh" biểu tượng cho sự tròn đầy, thuỷ chung, trọn vẹn của thiên nhiên, quá khứ, dù cho con người đổi thay "vô tình".
- Ánh trăng còn được nhân hoá "im phăng phắc" gợi liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng của người bạn thuỷ chung, tình nghĩa.
- Sự im lặng ấy làm nhà thơ "giật mình" thức tỉnh, cái "giật mình" của lương tâm nhà thơ thật đáng trân trọng, nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn.
- Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt.
- Qua đó Nguyễn Duy muốn gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lí ân nghĩa thuỷ chung.
* Kết đoạn
- "Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ.
- "Ánh trăng” có ý nghĩa sâu sắc, khái quát bởi lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho những người lính chống Mĩ mà nó có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời - trong đó có chúng ta.
6.2.3. Bài tập 3
Phân tích hình ảnh người và trăng trong đoạn thơ sau:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình. ”
Gợi ý
* Về hình thức: Cần viết thành đoạn văn hoàn chỉnh, nội dung rõ ràng, dễ tiếp nhận.
* Về nội dung: Cần đảm bảo các nội dung sau:
- Người sau khi trở về thành phố, quen với cuộc sống tiện nghi đã quên trăng nhưng rồi gặp phải tình huống bất ngờ: mất điện, tối tăm, cần tìm nguồn sáng.
- Tình huống ấy khiến người, theo thói quen “vội bật tung cửa sổ” và giây phút ấy đột ngột gặp lại “vầng trăng tròn”.
- Cuộc gặp gỡ ấy cũng là sự bừng tỉnh của con người gợi ra suy nghĩ sâu xa.
+ Người và trăng đối diện bởi người “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Đó cũng là sự đối diện với kỉ niệm, với quá khứ và có lẽ với cả chính mình.
+ Trong đối diện, người thấy quá khứ trở về: “như là đồng là bể” và người “rưng rưng” xúc động khi gặp lại kỉ niệm tri kỉ.
+ Trăng vẫn nguyên vẹn “cứ tròn vành vạnh” dù “người vô tình” đó là biểu tượng của quá khứ đẹp đẽ, không đổi thay và đầy tình nghĩa.
+ Trăng "im phăng phắc” - không phải là trăng mà là “ánh trăng” - hào quang quá khứ. Thái độ “im phăng phắc” là nhắc nhở, trách móc, hay bao dung? Người tự hiểu và vì vậy cũng đủ làm cho người “giật mình” cái giật mình bừng tỉnh, thức dậy những ân hận, nghĩ suy, hiểu ra đạo lí sống “uống nước nhớ nguồn” thủy chung tình nghĩa.