9. MÙA XUÂN NHO NHỎ

9.1. Những điều cần lưu ý về tác giả và tác phẩm

9.1.1. Tác giả

- Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, sinh năm 1930 mất năm 1980, quê ở Thừa Thiên Huế

- Hoạt động văn nghệ từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần xây dựng nền văn hoá cách mạng ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Sau năm 1975, ông là Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên.

- Với 50 mùa xuân cuộc đời, nhà thơ đã để lại 6 tập thơ: “Những đồng chí trung kiên”; “Huế mùa xuân” (2 tập); “Dấu võng Trường Sơn”; “Mưa xuân đất này” và “Thanh Hải thơ tuyển”.

- Thơ Thanh Hải là tiếng nói bình dị, chân thành của người chiến sĩ kiên trung, một lòng theo cách mạng, đã có những đóng góp đáng quí cho nền thơ chống Mỹ. Ông được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu 1965 và được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, đợt 1, năm 2001.

9.1.2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ được viết tháng 11 – 1980 (một tháng trước khi nhà thơ qua đời) thể hiện niềm thiết tha yêu cuộc sống, đất nước và ước nguyện của tác giả.

b. Đặc sắc nghệ thuật

- Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca.

- Hình ảnh tự nhiên, giản dị.

- Cấu tứ bài thơ chặt chẽ: từ mùa xuân đất trời → đất nước → con người.

- Giọng điệu thể hiện đúng tâm trạng.

- Cảm xúc của tác giả ở từng đoạn vui say sưa → trầm lắng, hơi trang nghiêm → sôi nổi tha thiết.

c. Ý nghĩa nhan đề bài thơ

- “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.

- Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người.

- Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.

- Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường, là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi gắm.

9.2. Bài luyện tập

9.2.1.Bài tập 1

a. Chép chính xác hai khổ thơ đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

b. Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.

c. Phân tích ý nghĩa nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ”. Chỉ ra mối quan hệ giữa hai khổ thơ trên với nhan đề bài thơ.

d. Trong chương trình Ngữ văn lớp 9, có bài thơ cũng có hình ảnh con chim, bông hoa? Chép nguyên văn những câu thơ mang hình ảnh đó. Cho biết đó là bài thơ nào, của ai? Theo em điểm chung về mặt nghệ thuật của hai bài thơ đó là gì?

Gợi ý

a. Chép chính xác hai khổ thơ đầu. (SGK)

b. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:

- Bài thơ được sáng tác vào tháng 11 – 1980.

- Đất nước đã thống nhất tiến lên xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước, song vẫn phải đương đầu với chiến tranh chống bọn bành trướng ở biên giới phía Bắc, đất nước còn đói nghèo và chồng chất khó khăn ...

- Bản thân nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, vài tuần lễ sau đó (15/12/1980) ông qua đời.

c. Ý nghĩa nhan đề bài thơ và mối liên hệ giữa hai khổ thơ:

- Mùa xuân là một khái niệm trừu tượng, thuộc về thiên nhiên đất trời rộng lớn, ở đây tác giả lại gắn nó với tính từ “nho nhỏ”, đó là sự sáng tạo độc đáo của tác giả, nó làm cho mùa xuân như có hình khối, như có thể nhìn ngắm, cầm, nắm được. Ông dùng hình ảnh này theo lối ẩn dụ tu từ, chỉ cả cuộc đời sống đẹp như mùa xuân mà ông muốn dâng trọn cho đất nước kể từ lúc thanh xuân đến khi tóc bạc.

- Nhan đề bài thơ cũng thể hiện sự ý thức đúng đắn về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Mùa xuân rộng lớn chỉ thuộc về đất trời, về cộng đồng, xã hội, không cá nhân nào làm nổi, nhưng mỗi cá nhân có thể đóng góp mùa xuân của riêng mình vào mùa xuân chung làm cho nó phong phú, rực rỡ. Như vậy, nhan đề này đã thể hiện chủ đề của tác phẩm, nói lên ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ, muốn sống đẹp như mùa xuân, muốn được làm một mùa xuân nho nhỏ góp phần vào mùa xuân lớn của đất nước.

- Khổ 1 nói về mùa xuân thiên nhiên đất trời xứ Huế. Mùa xuân ấy được tạo nên bởi hương sắc của những bông hoa, âm thanh của những tiếng chim. Khổ 2 nói về mùa xuân của đất nước, của cách mạng. Mùa xuân ấy được tạo nên bởi những người cầm súng, những người ra đồng,...Vậy là hai khổ thơ đều nói lên rằng mùa xuân rộng lớn thuộc về thiên nhiên, đất trời, về cộng đồng, xã hội. Từ cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước mà nhà thơ bày tỏ khát vọng mãnh liệt muốn dâng hiến cho cuộc đời. Hai khổ thơ này vì thế có mối quan hệ chặt chẽ với nhan đề bài thơ và hoàn toàn phù hợp với nhan đề ấy.

d. Bài thơ cũng có hình ảnh con chim, bông hoa là bài: “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Hai bài thơ giống nhau ở một số điểm sau:

- Hình ảnh thực đi liền với ẩn dụ biểu tượng;

- Cấu trúc lặp lại của các hình ảnh;

- Khát vọng hòa nhập dâng hiến được thể hiện một cách chân thành, tha thiết nhờ hệ thống điệp ngữ được sử dụng rất thành công;

- Giọng thơ mang đậm chất nhạc.

9.2.2. Bài tập 2

Trong bài thơ có những hình ảnh mùa xuân nào? Phân tích quan hệ giữa các hình ảnh mùa xuân ấy.

Gợi ý

- Có ba hình ảnh mùa xuân trong bài thơ: mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, mùa xuân nhỏ của mỗi người. Từ cảm hứng về mùa xuân thiên nhiên → cảm nghĩ về mùa xuân đất nước. Từ mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước mà liên tưởng đến mùa xuân của mỗi người - mỗi cuộc đời - một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn.

- Như vậy hình ảnh mùa xuân trước chuẩn bị và gợi ra những hình ảnh mùa xuân tiếp theo. Trong hình ảnh mùa xuân đất nước cũng có hình ảnh mùa xuân thiên nhiên. Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ của mỗi người cũng được thể hiện bằng những chi tiết đã được hiện ra trong hình ảnh mùa xuân thiên nhiên nhưng có sự biến đổi.

9.2.3. Bài tập 3

Trong phần đầu bài thơ, tác giả dùng đại từ “tôi” sang phần sau lại dùng đại từ “ta”. Em hiểu như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ tình.

Gợi ý

- Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình từ “tôi” sang “ta”. Điều này không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật thích hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Chữ “tôi” trong câu “tôi đưa tay tôi hứng” ở khổ thơ đầu vừa thể hiện một cái “tôi” cụ thể rất riêng của nhà thơ, vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ “ta” thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có vẻ phô trương.

- Còn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát vọng được dâng hiến những giá trị tinh túy của đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ “ta” lại tạo được sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước.

- Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ của riêng nhà thơ, cái “tôi” của tác giả đã nói thay cho nhiều cái “tôi” khác, nó nhất thiết phải hoá thân thành cái “ta”. Nhưng “ta” mà không hề chung chung vô hình, mà vẫn nhận ra được một giọng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái “tôi” Thanh Hải.

9.2.4. Bài tập 4

Phân tích 6 câu thơ đầu của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

Gợi ý

- Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét chấm phá nhưng rất đặc sắc.

- Từ “mọc” được đặt ở đầu câu: nghệ thuật đảo ngữ nhằm nhấn mạnh, khắc hoạ sự khoẻ khoắn. “Mọc” tiềm ẩn một sức sống, sự vươn lên, trỗi dậy. Giữa dòng sông rộng lớn, không gian mênh mông chỉ có một bông hoa thôi nhưng không hề gợi lên sự lẻ loi đơn chiếc. Trái lại, bông hoa ấy hiện lên lung linh, sống động, tràn đầy sức (sống) xuân.

- Màu sắc: gam màu hài hoà dịu nhẹ tươi tắn. Màu xanh lam của nước sông (dòng sông Hương) hòa cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím giản dị, thuỷ chung, mộng mơ và quyến rũ. Đó là màu sắc đặc trưng của xứ Huế.

- Âm thanh: Tiếng chim chiền chiện, loài chim của mùa xuân. Cách dùng các từ “ơi”, “chi" hay “chi mà”: mang chất giọng ngọt ngào đáng yêu của người xứ Huế (thân thương, gần gũi), mang nhiều sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu.

- Khung cảnh mùa xuân có không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng - một sắc xuân của xứ Huế - Một không gian bay bổng mà đằm thắm dịu dàng, tươi tắn.

- Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng, đào thắm cũng chẳng có muôn hoa khoe sắc màu rực rỡ, mùa xuân trong thơ Thanh Hải thật giản dị, đằm thắm.

- Cảm xúc say sưa ngây ngất, xốn xang rạo rực trước cảnh đất trời vào xuân.

- Giọt long lanh rơi: Giọt sương, giọt nắng, giọt mùa xuân, giọt hạnh phúc, giọt âm thanh.

- Tiếng chim chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến vào không trung. Nó như ngưng đọng lại thành từng giọt âm thanh, như những hạt lưu li trong vắt long lanh chói ngời. Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác: từ thính giác đến thị giác, xúc giác. Những yếu tố huyền ảo trong bài thơ được thể hiện một cách sáng tạo, gợi cảm và tài tình.

- “Tôi đưa tay tôi hứng”: Sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp chất nhạc của trời với sông, của chim với hoa, thể hiện sự đồng cảm của thi nhân trước thiên nhiên và cuộc đời.

9.2.5. Bài tập 5

Phân tích tám câu thơ cuối để thấy được ước nguyện của nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

Gợi ý

- Nhà thơ muốn làm những việc hữu ích dâng hiến cho đời qua những hình ảnh nhỏ bé, xinh xắn giàu ý nghĩa, lấy cái đẹp tinh tuý của thiên nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn “Ta làm con chim hót... một nốt trầm xao xuyến”.

- Làm “con chim hót” giữa muôn ngàn tiếng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, làm “một cành hoa” giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, làm “một nốt trầm” giữa bản hoà tấu muôn điệu, làm “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung.

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

- Khát vọng được hoà nhập, được cống hiến sức sống tươi trẻ – dù bé nhỏ của mình cho đất nước giản dị, chân thành, khiêm tốn nhưng vô cùng mãnh liệt, bất chấp thời gian, tuổi tác.

- Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợn chút băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”.

- Đây không phải là khẩu hiệu của một thanh niên bước vào đời mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp cho cách mạng vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung.

- Khổ thơ cuối như một nhịp láy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm tăng giá trị biểu cảm của các khổ thơ trên, đem lại thi vị Huế trìu mến thiết tha.