II. CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN

1. LÀNG

1.1. Những điều cần lưu ý về tác giả và tác phẩm

1.1.1. Tác giả

- Tên thật Nguyễn Văn Tài. Bút danh Kim Lân.

- Sinh 1920 mất năm 2007. Quê Từ Sơn - Bắc Ninh - một làng quê đẹp, trù phú và giàu truyền thống văn hóa.

- Là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, có sáng tác đăng báo từ trước Cách mạng Tháng Tám.

- Kim Lân am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân → Truyện của ông thường viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân Bắc Bộ.

1.1.2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

Truyện được sáng tác năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc này nông dân ở các đô thị di tản ra các vùng tự do.

b. Nội dung chính

Truyện diễn tả chân thực và sinh động tình yêu làng quê của ông Hai - một người nông dân dời làng đi tản cư trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Truyện khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước tha thiết.

- Đặc biệt, việc đặt nhân vật vào tình huống cụ thể góp phần thể hiện tính cách, diễn biến tâm trạng nhân vật.

- Ngôn ngữ nhân vật lúc đối thoại, lúc độc thoại mang đậm chất nông thôn, nhuần nhụy mà đặc sắc, gợi cảm.

→ Chân dung sống động, đẹp đẽ của người nông dân thời kỳ đầu kháng chiến.

1.1.3. Tóm tắt đoạn trích

Ông Hai là một người dân làng Chợ Dầu. Trong kháng chiến chống Pháp, ông và gia đình phải đi tản cư - mặc dù ông rất muốn ở lại làng chiến đấu. Sau một thời gian sống ở nơi tản cư, ông nghe được tin làng mình theo giặc. Cả gia đình ông bàng hoàng và cảm thấy nhục nhã. Rồi một hôm có người ở làng lên cải chính lại tin đồn đó. Ông Hai đi khoe với mọi người là giặc đốt nhẵn nhà ông và làng ông không hề theo Việt gian.

1.2. Bài luyện tập

1.2.1. Bài tập 1

Dưới đây là một phần trong văn bản “Làng” của nhà văn Kim Lân.

- Thế nhà con ở đâu?

- Nhà ta ở làng chợ Dầu.

- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?

Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:

- Có.

Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:

- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?

Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:

- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:

- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.

(Sách ngữ văn 9 - Tập I).

1. Qua đoạn đối thoại này, em thấy tâm trạng ông Hai có gì đặc biệt? Điều đó thể hiện nỗi niềm sâu kín của nhân vật này như thế nào?

2. Xây dựng hình tượng nhân vật chính luôn hướng về làng Chợ Dầu nhưng vì sao Kim Lân lại đặt tên truyện ngắn của mình là “Làng” mà không phải là “Làng chợ Dầu”?

Gợi ý

1. Qua đoạn đối thoại của ông Hai với con, ta thấy:

- Ông giãi bày, tâm sự với con thực chất là để tự giãi bày lòng mình.

- Điều đó thể hiện nỗi niềm sâu kín của nhân vật: Đó là tình cảm thiêng liêng sâu nặng với làng chợ Dầu và tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của ông Hai.

2. Xây dựng hình tượng nhân vật ông Hai, luôn tự hào, luôn hướng về làng chợ Dầu quê ông. Nhưng Kim Lân lại đặt tên truyện ngắn của mình là “Làng” mà không phải là “Làng chợ Dầu” vì:

- Nếu đặt tên là “Làng Chợ Dầu” thì câu chuyện chỉ kể về cuộc sống và con người ở một làng quê cụ thể → Ý nghĩa tác phẩm sẽ hạn hẹp.

- Đặt tên “Làng”, tiếng gọi gần gũi, thân quen, cụ thể với bất kỳ một ai → Ý nghĩa nhan đề có sức khái quát cao, giúp ta hiểu rõ hơn giá trị của truyện ngắn.

→ Tình cảm yêu làng yêu nước không chỉ là tình cảm của riêng ông Hai mà còn là tình cảm chung của những người dân Việt Nam thời kì đó.

1.2.2. Bài tập 2

Nhận xét về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, sách bình giảng Văn học 9 có viết: “Có lẽ chưa có ai trên đời lại đi khoe cái sự: Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn một cách hả hê, sung sướng thật sự như ông”.

Em có suy nghĩ gì về việc làm đó của ông Hai? Để cho nhân vật cứ “hả hê, sung sướng” trước cái sự lí ra phải đau khổ đó có phải Kim Lân đã đi ngược tâm lý thông thường của người đời không? Vì sao?

Hãy trình bày những hiểu biết đó của em trong một đoạn văn (khoảng 6 - 8 câu) theo cách lập luận Tổng hợp - Phân tích - Tổng hợp. Trong đoạn có sử dụng: thành phần khởi ngữ và câu kết là một câu cảm thán.

Gợi ý

- Ông Hai hả hê, sung sướng đi khoe với mọi người việc Tây đốt nhà mình bởi lẽ:

+ Nỗi vui mừng khôn xiết khi biết làng mình vẫn là làng yêu nước, làng kháng chiến.

+ Tài sản riêng bị phá hủy làm sao sánh được với danh dự thiêng liêng của làng mình.

+ Ông mất đi căn nhà - cơ nghiệp của cả đời mình nhưng bù vào đó ông lại có niềm tự hào về làng chợ Dầu mà ông hằng yêu quý.

- Để cho nhân vật có những việc làm như vậy, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tấm lòng yêu nước và sự đổi thay trong nhận thức của người nông dân với cách mạng, với kháng chiến.

1.2.3. Bài tập 3

Phân tích diễn biến tâm trạng của ông Hai trong những ngày đi tản cư.

Gợi ý

* Ở nơi tản cư, tình yêu làng của ông Hai hòa nhập với tình yêu nước.

- Xa làng, ở nơi tản cư ông nhớ làng da diết. Nỗi nhớ làng khiến ông thay tâm đổi tính: “Lúc nào ông cũng thấy bực bội, ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm, hơi một tí là gắt, hơi một tí là chửi”.

- Khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường “Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động".

- Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của quân ta.

+ Tin một em bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì trên tháp rùa.

+ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được 7 tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng.

+ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sống được tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ mà “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên” → đó là niềm vui của một con người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc, là niềm vui mộc mạc của một tấm lòng yêu nước chân thành.

* Khi nghe tin làng Dầu theo giặc:

- Nỗi bất hạnh lớn đã đổ sụp xuống đầu ông, ông sững sờ “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rần rần”.

- Ông trở về nhà “nằm vật ra giường, nước mắt giàn ra, nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp, hễ thấy đám đông nào tụ tập nhắc đến hai từ “Việt gian”, “Cam nhông” thì ông lại tự nhủ “Thôi lại chuyện ấy rồi”.

- Khi mụ chủ nhà biết chuyện, có ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi, ông đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn. Ông thoáng có ý nghĩ “Hay là trở về làng”. Tuy nhiên ông đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bởi “Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ Kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ". Chính vì thế ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

- Đau khổ, ông không biết tâm sự cùng ai ngoài đứa con bé bỏng. Yêu làng Dầu, ông muốn khắc sâu vào trái tim bé nhỏ của con tình cảm với làng, với kháng chiến, với Cụ Hồ, đó cũng chính là tấm lòng thủy chung “trước sau như một” với cách mạng của ông. Ngần ấy tuổi đầu mà nước mắt ông cứ ròng ròng khi nghĩ về làng. Nỗi đau ấy mới đáng trân trọng làm sao bởi đó là nỗi đau của một con người coi danh dự của làng như danh dự của chính bản thân mình.

* Khi tin đồn được cải chính:

Thái độ của ông thay đổi hẳn “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông lại chạy đi khoe khắp nơi “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.