III. HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ

(Trích Hồi thứ 14: Đánh Ngọc Hồi quân Thanh thua trận. Bỏ Thăng Long Chiêu Thống trốn ra ngoài)

1. Những điều cần lưu ý về tác giả và tác phẩm

1.1. Tác giả

- Tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” là Ngô gia văn phái, một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.

- Ngô Thì Chí (1753 – 1788), em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan thời Lê Chiêu Thống, viết 7 hồi đầu.

- Ngô Thì Du (1772 – 1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn, là tác giả 7 hồi tiếp theo (trong đó có hồi thứ 14 - Ngoài ra, còn ba hồi cuối có thể do một người khác viết vào khoảng đầu triều Nguyễn).

1.2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác: Được viết trong một thời gian dài, ở nhiều thời điểm khác nhau.

b. Thể loại: Tiểu thuyết lịch sử, viết bằng chữ Hán theo lối chương hồi. Phương thức biểu đạt: Tự sự.

c. Nhan đề tác phẩm: Tác phẩm viết bằng chữ Hán, gồm 17 hồi. Theo như nhan đề của tác phẩm là ghi chép sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh trả lại Bắc Hà cho vua Lê.

1.3. Đoạn trích: Hồi thứ 14

a. Chủ đề: Chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận lũ vua quan phản nước, hại dân.

b. Tóm tắt:

Quân Thanh kéo vào Thăng Long. Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở lui quân về vùng núi Tam Điệp. Quang Trung lên ngôi vua ở Phú Xuân tự đốc xuất đại binh nhằm ngày 25 tháng Chạp năm 1788 tiến quân ra Bắc diệt quân Thanh. Dọc đường vua Quang Trung tuyển thêm binh lính, mở cuộc duyệt binh lớn, chia quân thành các đạo, chỉ dụ tướng sĩ, mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng Chạp. Hẹn đến ngày mùng 7 Tết thắng giặc mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long. Đội quân của Quang Trung đánh đến đâu thẳng đến đó khiến quân Thanh đại bại. Ngày mồng 5 Tết Quang Trung đã tiến quân vào thành Thăng Long. Tướng Thanh là Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, vua Lê Chiêu Thống cùng gia quyến chạy trốn theo.

2. Bài luyện tập

2.1. Bài tập 1

Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung qua hồi thứ 14 của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái.

Gợi ý

a. Là một con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán:

- Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là con người hành động xông xáo nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết.

- Nghe tin giặc đánh chiếm Thăng Long, ông không hề nao núng, định cầm quân đi đánh giặc ngay. Chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc.

b. Đó là một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén:

- Khi 29 vạn quân Thanh hùng hổ xâm lược nước ta, thế giặc mạnh, đất nước lâm nguy, vận mệnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung để: chính danh vị thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người được nhân dân ủng hộ.

- Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch ta thể hiện rõ trong lời dụ:

+ Khẳng định chủ quyền dân tộc: đất nào sao ấy...

+ Vạch trần tội ác của kẻ thù: cướp bóc, giết hại, vơ vét,...

+ Ca ngợi truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc và nêu lên những tấm gương anh hùng như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng...

+ Kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực chiến đấu chống giặc ngoại xâm.

+ Đề ra kỉ luật nghiêm minh: nếu ai ăn ở hai lòng sẽ bị giết.

→ Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn mà ý từ phong phú, sâu xa có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền thông quật cường của dân tộc.

- Sáng suốt trong việc xét toán bề tôi:

+ Qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân, ta thấy ông hiểu rõ sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đúng người, đúng việc.

+ Ông đánh giá cao Ngô Thì Nhậm là người “túc trí đa mưu”.

c. Là người có tầm nhìn xa trông rộng:

- Vừa mới khởi binh nhưng Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn” đã biết thắng giặc trong vòng mười ngày, đã khao binh trước và hẹn mùng 7 ăn Tết ở Thăng Long.

- Chưa thắng giặc : nhưng Quang Trung đã nghĩ đến quyết sách ngoại giao và kế hoạch hòa bình trong 10 năm tới.

d. Là vị tướng có tài thao lược hơn người:

- Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn làm chúng ta hết sức kinh ngạc, đội quân của Quang Trung từ Phú Xuân ra Thăng Long vừa hành quân vừa đánh giặc theo kế hoạch là từ 25 tháng chạp đến mùng 7 Tết nhưng mồng 5 Tết đã thắng trận giòn giã.

- Đội quân hành quân đường xa phải đi liên tục, thế giặc rất mạnh nhưng đội ngũ vẫn chỉnh tề. Như vậy người cầm quân quả là người có tài tổ chức tuyệt vời

e. Là vị vua lẫm liệt trong chiến trận:

Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa nhà vua mà là tổng chỉ huy chiến dịch thực sự - Hình ảnh người anh hùng áo vải được khắc họa rất oai phong, lẫm liệt: Khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.

→ Hình ảnh Quang Trung hiện lên thật oai phong, lẫm liệt, với tính cách quả cảm, mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dụng bình như thần; là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. Hình ảnh được xây dựng chân thực, sinh động, được khắc hoạ đậm nét.

2.2. Bài tập 2

Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả như thế nào trong đoạn trích?

Gợi ý

a. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh:

- Tướng thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp... chuồn trước qua cầu phao”.

- Quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều rụng rời sợ hãi” xin ra hàng hoặc “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết” “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”.

b. Số phận thảm bại của bọn vua tôi phản nước hại dân:

- Lê Chiêu Thống phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, không còn đâu tư cách bậc quân vương.

- Kết cục phải chịu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc: Vội vã cùng mấy bề tôi thân tín “đưa thái hậu ra ngoài”, chạy bán sống bán chết, “luôn mấy ngày không ăn”. Đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị chỉ còn biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.

Nhận xét: Lối kể chuyện xen kẽ miêu tả sinh động, cụ thể, gây ấn tượng mạnh.

2.3. Bài tập 3

Tại sao các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” vốn có cảm tình với nhà Lê, “phò Lê” nhưng lại viết rất hay, rất đẹp về người anh hùng Nguyễn Huệ?

Gợi ý

Ngô gia văn phái là cựu thần nhà Lê vẫn trung thành với nhà Lê không mấy cảm tình với Tây Sơn thậm chí xem Tây Sơn như giặc mà các tác giả vẫn viết về Quang Trung và những chiến công của đoàn quân áo vải một cách cảm tình hào hứng như vậy bởi vì:

- Cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Tây Sơn là sự thật lịch sử mà các tác giả đã được chứng kiến tận mắt, là những trí thức có lương tâm, những người có tâm huyết và tài năng nên các ông không thể không tôn trọng lịch sử. Mặt khác, các tác giả cũng được chứng kiến tận mắt sự thối nát, kém cỏi, hèn mạt của nhà Lê cùng sự độc ác , hống hách, ngang ngược của giặc Thanh nên các ông không thể không thở dài ngao ngán, cảm thấy nhục nhã, ý thức dân tộc không thể không được dâng cao.

- Tất cả những điều đó đã đem đến những trang ghi chép chân thực mà xúc động, tự hào như vậy.