I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là nhà văn, nhà thơ lớn, là vị anh hùng mà tên tuổi gắn liền với cuộc kháng chiến oanh liệt mười năm chống giặc Minh xâm lược của nhân dân ta do chủ tướng Lê Lợi lãnh đạo.

- Bài ca Côn Sơn có thể được sáng tác trong thời gian hoà bình, Nguyễn Trãi về sống ở quê nhà. Nguyên tác bằng chữ Hán, bản dịch tiếng Việt chuyển sang thể thơ lục bát. Nội dung bài thơ ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên và thể hiện tâm trạng của nhà thơ lúc đó.

2. Thân bài:

* Cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng ở Côn Sơn:

+ Nhà thơ miêu tả sự đa dạng, phong phú của Côn Sơn bằng giọng thơ sảng khoái, đầy hứng khởi, tự hào: Côn Sơn suối chảy rì rầm... Côn Sơn có đá rêu phơi... Trong rừng thông mọc như nêm... Trong rừng có bóng trúc râm...

+ Có sự giao hòa tuyệt đối giữa con người và cảnh vật. Sự giao hoà đó thể hiện nhân cách cao cả và tâm hồn phóng khoáng của thi nhân: nghe tiếng suối như nghe tiếng đàn réo rắt, du dương; ngồi trên đá như ngồi chiếu êm, ngâm thơ nhàn dưới bóng mát của rừng trúc...

* Hình ảnh và tâm trạng của nhà thơ:

+ Cốt cách nhà thơ giống như cốt cách của một ẩn sĩ sống cuộc đời an bần lạc đạo, vui thú lâm tuyền, gửi gắm tâm sự vào cỏ cây, mây nước.

+ Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên bằng thính giác, thị giác... và bằng cả trái tim mình.

+ Bóng dáng con người nhà thơ hoà lẫn vào suối, vào rêu, vào đá, vào thông, vào trúc.

+ Tiếng ngâm thơ nhàn hoà cùng những âm thanh của rừng tạo nên bản đàn bất tuyệt.

+ Tâm trạng của nhà thơ là tạm quên những phiền nhiễu của chốn phồn hoa danh lợi để hoà mình với thiên nhiên, làm dịu đi những ưu tư, phiền muộn bấy lâu. Tuy vậy, trong sâu kín tâm tư, Nguyễn Trãi vẫn canh cánh nỗi lo dân, lo nước.

3. Kết bài:

- Bài ca Côn Sơn là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp được vẽ nên bởi một ngọn bút tài hoa và giàu cảm xúc.

- Đọc những bài thơ viết về thôn quê, chúng ta càng hiểu thêm về tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của Nguyễn Trãi.

II. BÀI LÀM

Nguyễn Trãi (1380 - 1442) hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Gia đình đến lập nghiệp ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây và Nguyễn Trãi được sinh ra tại đây. Năm 1400, ông đậu thái học sinh và ra làm quan trong triều nhà Hồ. Sau đó tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, với vai trò quân sư bên cạnh chủ tướng Lê Lợi. Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, nhà quân sự thiên tài, nhà ngoại giao xuất chúng, nhà văn hoá, nhà thơ lỗi lạc. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập...

Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian hoà bình, ông đã cáo quan về sống ở Côn Sơn. Côn Sơn không chỉ là quê hương mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Trãi.

Côn Sơn ca vừa là bài ca thiên nhiên vừa là bài ca tâm trạng. Hai ý này hoà quyện thống nhất trong cảm xúc của thi nhân. Đoạn trích miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên nhưng vẫn thấm nhuần ý vị trữ tình của tâm trạng.

Trong nguyên văn chữ Hán, Bài ca Côn Sơn được viết theo thể thơ khác nhưng bản dịch đã chuyển thành thể lục bát:

Côn Sơn suối chảy rì rầm,

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.

Côn Sơn có đá rêu phơi,

Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.

Trong rừng thông mọc như nêm,

Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.

Trong rừng có bóng trúc râm,

Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn...

Sự giao hòa tuyệt đối giữa con người với cảnh vật được thể hiện khá rõ trong đoạn thơ, qua đó phản ánh nhân cách thanh cao và tâm hồn phóng khoáng của Nguyễn Trãi.

Trước hết, ta hãy thưởng thức giọng thơ sảng khoái, hứng khởi, bộc lộ qua các câu thơ tự do trong nguyên văn chữ Hán:

Côn Sơn hữu tuyền,

Kì thanh linh linh nhiên,

Ngô dĩ vi cầm huyền.

Côn Sơn hữu thạch,

Vũ tẩy đài phô bích,

Ngô dĩ vi đạm tịch.

Nham trung hữu tùng,

Vạn lí thuý đồng đồng.

Ngô ư thị hồ,

Yến tức kỳ trung.

Lâm trung hữu trúc,

Thiên mẫu ấn hàn lục

Ngô ư ngâm tiếu kì khắc.

Nhịp thơ rộn rã như nhịp đàn, nhịp phách. Tinh thần sảng khoái trong tâm hồn thi sĩ đã tạo nên chất phóng khoáng của lời thơ.

Gần trọn cuộc đời lo cho dân, cho nước, nhưng những năm cuối đời, Nguyễn Trãi lại phải sống trong sự đố kị, ghen ghét của đám nịnh thần. Vì vậy, khi trở về Côn Sơn, Nguyễn Trãi như con chim bằng sổ lồng tung cánh, cảm thấy mình thật sự tự do giữa trời cao đất rộng. Lúc này, ông mới được sống thật với chính mình, mới được là mình. Thi sĩ lúc dạo chơi, khi nằm nghỉ, khi chuyện trò tâm sự với những người nông dân áo vải, lúc cao hứng ngâm nga, vui say giữa rừng núi quê nhà. Phong thái nhà thơ thật giản dị, ung dung mà cũng thật cởi mở, chan hoà.

Trong bài ca Côn Sơn, cảnh vật thiên nhiên hiện lên với dòng suối trong chảy róc rách, rì rầm như tiếng đàn lúc khoan, lúc nhặt. Phiến đá phẳng phủ rêu xanh mướt, mịn như chiếu êm. Thông, tùng mọc như nêm; rừng trúc bạt ngàn màu xanh tươi mát. Qua nét vẽ tài hoa của ngòi bút Nguyễn Trãi, khung cảnh Côn Sơn hiện lên với những đặc điểm riêng biệt, không lẫn với bất cứ bức tranh sơn thuỷ nào.

Trong bài thơ, đại từ ta xuất hiện năm lần. Ta ở đây chính là Nguyễn Trãi. Ta nghe tiếng suối mà như nghe tiếng đàn. Ta ngồi trên đá lại tưởng ngồi chiếu êm. Ta nằm hóng mát, ta ngâm thơ nhàn... Giữa khung cảnh mơ mộng, hình ảnh của thi sĩ giống như một nhà hiền triết hoặc một Tiên ông đang đắm mình vào thiên nhiên tuyệt mĩ.

Nguyễn Trãi vừa là thi sĩ rung cảm trước cái đẹp, vừa là hoạ sĩ vẽ nên phong cảnh hữu tình của Côn Sơn. Ông đã vẽ bức tranh Côn Sơn với cây, với suối, với nhân vật trữ tình là chính mình. Đồng thời, ông còn là một nhạc sĩ tài hoa, bằng những nốt nhạc bổng trầm, dệt nên Bài ca Côn Sơn du dương cuốn hút lòng người.

Thiên nhiên Côn Sơn khoáng đạt và thanh tĩnh. Bao trùm lên tất cả là sắc lá xanh ngời. Ở đây có suối chảy rì rầm, có bàn đá rêu phơi, có rừng tùng, rừng trúc che ánh nắng mặt trời, tạo ra khung cảnh tao nhã cho thi nhân ngồi ngâm thơ nhàn một cách thú vị... Hình ảnh cây trúc, cây tùng trong văn chương tượng trưng cho khí phách cứng cỏi của người quân tử: Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.

Nhà thơ hoà mình vào thiên nhiên hoang sơ đầy quyến rũ. Từ tiếng suối chảy róc rách, những tấm thảm rêu biếc, những tán thông kiêu hãnh, rừng trúc xanh tươi đều toát lên vẻ yên ả, đem lại sự thanh thản, bình yên cho tâm hồn. Bao lo lắng, phiền muộn của cuộc đời dường như được trút sạch, con người và thiên nhiên hoà làm một.

Bức tranh Côn Sơn được Nguyễn Trãi cảm nhận không chỉ bằng thị giác, thính giác mà còn được cảm nhận bằng cả trái tim. Người đọc nhận ra cái “tâm” trong sáng và cái tài độc đáo của thi nhân qua bài thơ này.

Bóng dáng nhà thơ hiện lên mờ ảo, thấp thoáng. Dường như ông hoà lẫn vào suối, vào rêu, vào đá, vào thông, vào trúc. Cái bóng dáng ẩn hiện và tiếng ngâm thơ trầm bổng, ngân nga trong không gian ấy gần như đã thể hiện đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ.

Nếu như ở bốn câu đầu, cảnh thiên nhiên Côn Sơn được miêu tả khách quan thì ở các câu thơ sau, tác giả lại kín đáo lồng vào trong đó lời khuyên xuất thế. Khi Nguyễn Trãi cáo quan về quê, mọi người đều tưởng ông bất mãn, chán đời, lui vào ẩn dật để quên mình, quên đời... nhưng không phải vậy. Lê Thánh Tông hiểu lòng ông, vời ông ra làm việc, ông lại hăng hái về triều, gánh vác việc dân, việc nước. Trong biểu tạ ơn vua, Nguyễn Trãi đã tự ví: Thần như con ngựa già còn ham rong ruổi...

Nếu so sánh câu thơ: Côn Sơn có suối rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai của Nguyễn Trãi với câu thơ: Tiếng suối trong như tiếng hát xa của Hồ Chí Minh trong bài Cảnh khuya, chúng ta sẽ thấy cả hai đều là cảm xúc của tâm hồn thi sĩ tinh tế, cùng tưởng tượng tiếng suối giống như tiếng nhạc, tiếng hát tuyệt vời.

Hai người cùng chung đề tài, chung biện pháp nghệ thuật so sánh nhưng khác nhau ở vị thế lúc làm thơ.

Bài ca Côn Sơn được sáng tác khi Nguyễn Trãi bất đắc dĩ phải sống ẩn dật tại Chí Linh. Còn Cảnh khuya được nhà cách mạng Hồ Chí Minh viết trong lúc giữ cương vị tổng chỉ huy của cuộc kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc. Hai cảnh ngộ, hai tâm trạng khác nhau, tuy đều lấy tiếng suối làm mạch nguồn cảm xúc nhưng sự cảm nhận và liên tưởng của mỗi người lại thể hiện nét riêng đậm dấu ấn cá nhân và tinh thần thời đại.

Hai nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, hai thi nhân tầm vóc thời đại tuy sống cách nhau năm thế kỉ nhưng giống nhau ở cảm hứng mãnh liệt trước thiên nhiên tươi đẹp. Chỉ khác là nghe tiếng suối, Nguyễn Trãi liên tưởng đến tiếng đàn huyền diệu, còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nghĩ tới âm hưởng hùng tráng của bài ca chiến thắng trong tương lai.

Đọc những bài thơ của Nguyễn Trãi viết về cảnh vật thôn quê, chúng ta hiểu thêm về tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng của ông. Bài ca Côn Sơn khiến lòng ta xao xuyến, bồi hồi và càng thêm gắn bó với từng mảnh vườn, góc phố quê hương.