I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là vị vua nổi tiếng nhân ái, yêu dân, yêu nước.

- Ông đã cùng vua cha (Trần Thánh Tông) và các tướng lĩnh tài ba như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải... lãnh đạo nhân dân ta mấy lần đánh bại quân xâm lược Nguyên - Mông.

- Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được nhà vua sáng tác trong dịp về thăm quê nội ở Thiên Trường (Nam Định), sau khi nước nhà đã sạch bóng quân thù. Nội dung ca ngợi khung cảnh thiên nhiên nông thôn thơ mộng và cuộc sống thanh bình của nhân dân.

2. Thân bài:

* Khung cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường:

+ Hai câu thơ đầu:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dương biên

(Trước xóm, sau thôn tựa khỏi lồng

Bóng chiều man mác có dường không.)

- Tả cảnh làng quê lúc hoàng hôn, sương như khói bao phủ lên khắp thôn xóm, vạn vật thấp thoáng ẩn hiện như có, như không. Bức tranh nông thôn với màu sắc, đường nét nhẹ nhàng, thanh thoát.

- Hình ảnh giản dị, quen thuộc nhưng rất gợi cảm (thôn xóm, sương khói, bóng chiều...)

+ Hai câu thơ cuối:

Mục đồng địch lí ngưu quy tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền.

(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.)

- Vẫn tiếp tục tả cảnh: tiếng sáo mục đồng réo rắt, đàn trâu đã về nhà hết, từng đôi cò trắng nghiêng cánh liệng trên cánh đồng lúa xanh.

- Cảm xúc xốn xang, rạo rực trong lòng nhà thơ - một vị vua có tâm hồn thi sĩ, xuất thân từ nông thôn, gắn bó máu thịt với quê hương và dân chúng.

3. Kết bài:

- Bài thơ ngắn gọn, hàm súc nhưng xứng đáng là thơ của muôn đời.

- Vẻ đẹp giản dị, tinh tế của nó để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.

II. BÀI LÀM

Trần Nhân Tông (1258 - 1308) tên thật là Trần Khâm, con đầu của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng khoan hoà, nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông thắng lợi vẻ vang (1285 - 1288). Vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hoá đạo Phật, cuối đời, vào năm 1998, ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hoá, một nhà thơ tiêu biểu của đời Trần.

Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần đã cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Ngày tháng sáng tác không thấy ghi cụ thể nhưng chắc chắn bài thơ ra đời sau chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ ba không lâu, vào giai đoạn cuộc sống yên lành của nhân dân đang được khôi phục lại (nghĩa là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ XIII).

Phiên âm chữ Hán:

Thiên Trường vãn vọng

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dương biên.

Mục đồng địch lí ngưu quy tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền.

Dịch nghĩa:

Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra

Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ,

Cảnh vật bóng chiều chập chờn nửa như có nửa như không.

Mục đồng lùa trâu về nhà tiếng sáo véo von

Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.

Dịch thơ:

Trước xóm sau thôn tựa khỏi lồng

Bóng chiều man mác có dường không

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

(Ngô Tất Tố dịch)

Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường, một vùng quê tĩnh lặng như muôn vàn vùng quê khác lúc chiều buông với những hình ảnh đơn sơ quen thuộc: mấy mái nhà tranh thấp thoáng trong làn sương mờ mờ như khói; dăm trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo, dẫn trâu về chuồng; vài đôi cò trắng chao nghiêng cánh chấp chới liệng xuống đồng...

Hai câu thơ đầu:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dương biên.

(Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng,

Bóng chiều man mác có dường không).

Lúc hoàng hôn, sự vật trước xóm, sau thôn chìm dần vào màn sương đang từ từ buông xuống, hoà lẫn với những làn khói toả ra từ mái bếp. Trong bóng chiều man mác, mọi vật thấp thoáng ẩn hiện, dường như có, dường như không. Bức tranh quê được tác giả miêu tả với những sắc màu hòa hợp ánh tà dương vàng sẫm rớt lại trên ngọn tre, màn sương tím, cánh cò trắng, lúa xanh... cùng tiếng sáo mục đồng véo von gợi cảm giác về một cuộc sống thanh bình đã trở lại sau bao năm binh lửa.

Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc biệt, rất giản dị, bình thường nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Tại sao như vậy? Bởi dân ta đã phải đổ bao xương máu, phải chịu bao đau thương, tang tóc mới giành lại được cuộc sống yên ấm từ tay lũ giặc dữ xâm lược phương Bắc.

Hai câu thơ cuối:

Mục đồng địch lí ngưu quy tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền.

(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

Nhà thơ đã lựa chọn thật đắc địa hai hình ảnh tiêu biểu cho cảnh đồng quê lúc chiều về: đám mục đồng thổi sáo dẫn trâu về chuồng và cò trắng từng đôi nghiêng cánh sà xuống cánh đồng đã vắng bóng người.

Lời thơ không đơn thuần chỉ kể và tả mà nó còn biểu hiện một xúc cảm kì lạ và một niềm vui đang xốn xang, rạo rực trong lòng nhà thơ. Ngắm đàn trâu no căng đang chậm rãi nối đuôi nhau về làng, trên lưng vắt vẻo mấy chú mục đồng ung dung thổi sáo; phóng tầm mắt ra xa (vọng), thấy trên thảm lúa xanh, dăm ba cánh cò trắng muốt đang chao liệng, thử hỏi tâm hồn nào không xao xuyến, bâng khuâng, không dạt dào yêu mến?!

Cảnh tượng buổi chiều ở nông thôn được tác giả phác hoạ rất đơn sơ nhưng vẫn đậm đà sắc quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ tác giả là vị vua xuất thân từ nông dân, đã cùng lăn lộn, cùng vào sinh ra tử với dân để đánh đuổi ngoại xâm, giành lại cho đất nước cuộc sống thanh bình. Dù có địa vị tối cao nhưng tâm hồn nhà vua - thi sĩ vẫn gắn bó máu thịt với quê hương và dân chúng.

Bài thơ tuy ngắn nhưng nó xứng đáng là thơ của mọi thời. Cho dù bảy thế kỉ đã trôi qua mà sức mạnh rung cảm và chinh phục lòng người của nó vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu.