I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Bài thơ Rằm tháng Giêng được sáng tác trong hoàn cảnh cụ thể là sau một cuộc họp bí mật của Trung ương Đảng do Bác Hồ tổ chức trên một chiếc thuyền buông neo giữa một dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, để tổng kết về tình hình chiến sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
- Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán. Nhà thơ Xuân Thuỷ dịch sang tiếng Việt dưới thể lục bát. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước thiết tha của Bác Hồ.
2. Thân bài:
* Cảnh đẹp đêm trăng rằm tháng Giêng:
+ Câu 1 và 2:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.)
- Hình ảnh vầng trăng tròn đầy toả sáng khắp bầu trời, mặt đất trong đêm rằm gợi cảm xúc lâng lâng, thanh thoát.
- Tính từ xuân trong câu chữ Hán gắn liền với ba sự vật (xuân giang, xuân thuỷ, xuân thiên) đặc tả sức sống của mùa xuân bao trùm khắp đất trời. Trong câu thơ dịch sang tiếng Việt, tuy bỏ mất một từ xuân nhưng vẫn giữ được ý trên: Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
- Sức sống của non nước mùa xuân làm náo nức lòng người, khơi dậy thi hứng. Điệp từ xuân nhấn mạnh ý tạo vật cùng con người đều phơi phới khí thế tươi vui.
+ Câu 3 và 4:
Yên ba thâm xứ bàn quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
(Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.)
- Yên ba thâm xứ: ở sâu trong chốn mịt mù khói sóng mà dịch là giữa dòng, ý thơ nhẹ đi nhiều bởi tính chất bí mật và nguy hiểm của đại sự (bàn quân sự) bị giảm hẳn, thay vào đó là sự nhẹ nhàng, thanh thản thể hiện qua từ ngữ và âm điệu: Giữa dòng bàn bạc việc quân.
- Hình ảnh con thuyền chở đầy ánh trăng (nguyệt mãn thuyền) thường thấy trong thơ cổ điển nhưng ở đây nó lại chứa đựng một ý nghĩa hoàn toàn mới. Con thuyền chở đầy ánh trăng lướt trên dòng sông lấp lánh trăng mang vẻ đẹp lãng mạn, tượng trưng cho tình thế lạc quan của cách mạng và lòng người đầy vui vẻ, tin tưởng...
3. Kết bài:
- Bài thơ Rằm tháng Giêng với âm hưởng khoẻ khoắn, tươi vui và hình ảnh lung linh, đẹp đẽ, đem lại cho người đọc cảm xúc thanh cao, trong sáng.
- Bài thơ góp phần khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một lãnh tụ cách mạng tài ba, vừa là một nghệ sĩ có tâm hồn và trái tim nhạy cảm.
II. BÀI LÀM
Rằm tháng Giêng năm 1948, trên chiếc thuyền neo đậu giữa một dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở một cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự của thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 - 1948). Cuộc họp tan thì đêm đã khuya. Trăng rằm toả sáng khắp mặt đất bao la. Cảnh sông núi trong đêm trăng càng trở nên đẹp đẽ và thơ mộng. Cảm hứng dâng cao, Bác đã ứng khẩu làm bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa đề là Nguyên tiêu:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Sau đó, nhà thơ Xuân Thuỷ dịch bài thơ ra tiếng Việt dưới thể lục bát, với tên là Rằm tháng Giêng. Bản dịch giữ được gần hết ý thơ trong nguyên tác với nội dung thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước thiết tha của Bác Hồ.
Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác tả cảnh trăng đẹp chốn rừng sâu thì ở bài này, Bác tả cảnh trăng trên sông nước:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Vầng trăng tròn đầy, toả sáng bát ngát khắp bầu trời, mặt đất trong đêm Nguyên tiêu. Khung cảnh mênh mông, tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời: Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Vạn vật ăm ắp sức xuân: sông xuân, nước xuân và trời xuân nối tiếp, giao hoà, tạo nên một vũ trụ căng đầy sức sống, làm náo nức lòng người. Điệp từ xuân được lặp lại nhiều lần với ý tạo vật cùng lòng người đều phơi phới khí thế tươi vui.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Trên một chiếc thuyền nhỏ giữa chốn mịt mù khói sóng (yên ba thâm xứ ), Bác cùng Chính phủ và Trung ương Đảng luận bàn việc quân, việc nước. Công việc trọng đại đến chừng nào, nhất là trong hoàn cảnh buổi đầu kháng chiến đầy thiếu thốn, gian khổ. Tuy vậy, gian khổ không làm vơi đi cảm xúc, thi hứng trong lòng Bác. Buổi họp kết thúc vào lúc nửa đêm. Trăng rằm tròn vành vạnh treo giữa trời (nguyệt chính viên) đang toả sáng. Cảnh sông nước trong đêm lại càng thêm thơ mộng. Dòng sông trở thành dòng sông trăng và con thuyền cũng dường như chở đầy ắp ánh trăng (trăng ngân đầy thuyền). Trước đêm trăng đẹp, tâm hồn Bác lâng lâng. Bác thả hồn hoà nhập với thiên nhiên mà Bác vốn coi là một người bạn tri âm, tri kỉ. Trong lòng Bác dâng trào một niềm vui, niềm tin vào thắng lợi của Cách mạng, của kháng chiến. Hình ảnh con thuyền chở đầy trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng là một hình ảnh lãng mạn có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Phải có một phong thái ung dung tự tại và niềm lạc quan mãnh liệt vào tương lai thì nhà thơ mới sáng tạo ra được hình tượng nghệ thuật độc đáo trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Bài thơ Rằm tháng Giêng với âm hưởng khoẻ khoắn, tươi vui đã đem lại cho người đọc cảm xúc thanh cao, trong sáng. Bài thơ là dẫn chứng tiêu biểu chứng minh Bác Hồ vừa là một lãnh tụ cách mạng tài ba, vừa là một nghệ sĩ có trái tim vô cùng nhạy cảm.