Câu 1. Đọc diễn cảm đoạn thơ. Em có nhận xét gì về giọng điệu của đoạn thơ này? Thể thơ truyền thống song thất lục bát (mà em đã làm quen qua đoạn trích Chinh phụ ngâm học ở lớp 7) đã góp phần vào việc thể hiện giọng điệu đó như thế nào?
Khi đọc diễn cảm, các em phải nắm vững nội dung để chọn giọng điệu phù hợp với nội dung từng đoạn lúc thống thiết, lúc tự hào, lúc căm phẫn, lúc thiết tha.
Đoạn trích là lời dặn dò tâm huyết của Nguyễn Phi Khanh với người con trai của mình là Nguyễn Trãi khi ông bị giặc Minh bắt sang Trung Quốc. Đây là lời trăng trối của người cha với con trước giờ vĩnh biệt trong bối cảnh đau thương nước mất nhà tan. Trong lời dặn dò đó chất chứa tình phụ tử thiêng liêng, niềm uất hận, đau xót đến “xé nát tâm can”. Tất cả những xúc cảm buồn đau đó được tác giả thể hiện bằng thể thơ song thất lục bát truyền thống.
Sự kết hợp giữa giọng điệu mượt mà, êm ái của thể lục bát và âm hưởng dứt khoát, hùng hồn của thể thơ bảy chữ rất thích hợp để diễn tả những tâm trạng phức tạp, những nỗi đớn đau khắc khoải. Những thanh “trắc” ở câu bảy, sự hiệp vần ở hai câu lục bát làm tăng nhạc tính ở từng khổ thơ, tạo nên giọng điệu thống thiết, lâm li. Có thể nói thành công đầu tiên của bài Hai chữ nước nhà chính là ở sự lựa chọn thể thơ thích hợp.
Câu 2. Đoạn thơ có thể chia làm ba phần: 8 câu đầu, 20 câu tiếp theo và 8 câu cuối. Em hãy tìm hiểu ý chính từng phần.
Đoạn trích gồm ba phần:
Phần 1: Từ đầu đến ...lời cha khuyên: Không gian ảm đạm và tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh cha con chia tay không có ngày gặp lại.
Phần 2: Tiếp theo đến ...sau đó mà: Đất nước trong tình cảnh đau thương, tang tóc dưới ách ngoại xâm.
Phần còn lại: Sự bất lực của người cha và lời trao gửi tâm huyết dành cho con.
Câu 3. Ở 8 câu thơ đầu, hãy tìm hiểu và phân tích những chi tiết nghệ thuật biểu hiện:
- Bối cảnh không gian;
- Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của hai nhân vật cha và con.
Trong bối cảnh không gian và tâm trạng ấy, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như thế nào?
- Bối cảnh không gian: Cuộc chia li giữa hai cha con diễn ra ở biên ải phía Bắc giáp Trung Quốc vốn là nơi khung cảnh ảm đạm, heo hút, bốn bề rừng núi trập trùng, mây sầu, gió thảm, hổ thét, chim kêu... Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây là điểm dừng chân cuối cùng để rồi vĩnh viễn xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người ruột thịt. Tâm trạng đau đớn của kẻ bị lưu đày biệt xứ đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc, thê lương và ngược lại, cảnh vật ấy càng như giục cơn sầu trong lòng người vốn nặng tình non nước.
- Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: Cha bị giặc bắt giải sang Tàu, con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc đền nợ nước, trả thù nhà. Đối với cả hai cha con, nghĩa nước, tình nhà đều thiêng liêng, sâu đậm. Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lòng họ càng tăng lên gấp bội.
Nguyễn Phi Khanh khuyên con trai những điều tâm huyết. Trước hết, ông nhắc nhở con về dòng giống cao quý của dân tộc Việt: Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định. Sau đó phân tích cho con hiểu về quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải trải qua các giai đoạn hưng thịnh và suy vong những gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước thì xưa nay không hiếm và không kém gì những gương sáng trong lịch sử phong kiến phương Bắc. Để bảo vệ đất nước, người phụ nữ còn đứng lên gánh vác việc nghĩa, huống chi các bậc nam nhi!
Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi - người con mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động vô cùng, khiến người con phải khắc cốt ghi tâm.
Câu 4. Phân tích đoạn thơ thứ hai:
- Tâm sự yêu nước của tác giả thể hiện qua những tình cảm nào?
- Tìm hiểu sức gợi cảm của đoạn thơ (chú ý cách biểu hiện cảm xúc của tác giả và cả bối cảnh, tâm trạng của người đương thời vào những năm 20 của thế kỉ XX.).
Tác giả hoá thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị quân thù lưu đày biệt xứ, để thấu hiểu tâm tư trĩu nặng, nỗi đau thời thế trước tình cảnh bi thảm của đất nước và lên án tội ác trời không dung đất không tha của quân xâm lược; cho nên cảm xúc chân thành và nỗi đau da diết làm xúc động tâm can người đọc.
Xen giữa những dòng tâm tư đắng cay, chua xót là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi thương. Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như: kể sao xiết kể, xé tâm can, thương tâm, lầm than đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Gây xúc động nhất là hình ảnh: Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là “tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết” đúng như nhận định của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao, vượt lên số phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con là một tiếng than, tiếng nấc nghẹn ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn Khải rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhân vật Nguyễn Phi Khanh. Do đó bài thơ có sức lay động lòng người, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu đương thời.
Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn không lúc nào nguôi trong lòng ông.
Tác giả mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng còn gọi là Nhị Hà) - biểu tượng của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình. Cơ nghiệp lớn lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời nay, không lẽ con cháu lại để rơi vào tay giặc dữ?
Câu 5. Trong phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình và sự nghiệp của tổ tông là để nhằm mục đích gì?
Thể hiện tình cảnh “lực bất tòng tâm” của Nguyễn Phi Khanh, ngòi bút tác giả như đẫm nước mắt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây...
Người cha nói đến cái bất lực của mình (tuổi già sức yếu, lỡ sa cơ, đành chịu bó tay, thân lươn) và sự nghiệp của tổ tông là để nhằm kích thích, hun đúc cái ý chí gánh vác trách nhiệm đối với non sông của người con, làm cho lời trao gửi thêm sức nặng tình cảm.
Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều là lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho con. Gánh nặng sơn hà, xã tắc đã được ông uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng. Ông động viên con hãy tỏ ra xứng đáng với sự nghiệp oanh liệt của tổ tông Đã từng phen vì nước gian lao.
Câu 6. Người ta nói thơ Trần Tuấn Khải vẫn sử dụng nhiều hình ảnh, từ ngữ có tính chất ước lệ, sáo mòn. Em thử tìm trong đoạn thơ này một số hình ảnh, từ ngữ như thế và nói xem tại sao nó vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ.
Các hình ảnh, từ ngữ có tính chất ước lệ, sáo mòn trong đoạn thơ: mây sầu ảm đạm, gió thảm đìu hiu, tầm tã châu rơi, xương rừng máu sông, đất khóc giời than,... tuy vậy, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ bởi:
- Tác giả đã tạo nên không khí chung cho toàn bài. Tình cảnh trong bài không phải chỉ là tình cảnh của thời Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi mà còn là tình cảnh ở những năm 20 của thế kỉ XX. Đó là cảnh nước mất nhà tan bởi giặc ngoại xâm.
- Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của hai nhân vật cha và con thiêng liêng xúc động, có sức truyền cảm lớn, lay động sâu xa tâm hồn người đọc.
- Sức truyền cảm mạnh mẽ được tạo nên từ cảm xúc chân thành, từ lòng yêu nước sâu xa của tác giả. Bài thơ vừa phản ánh sinh động tâm trạng khắc khoải, đau thương của nhân vật Nguyễn Phi Khanh, vừa thức tỉnh tình cảm yêu nước thương nòi của cả dân tộc trong thời hiện tại.