I. DÀN Ý

1. Mở bài:

* Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm:

- Trần Tuấn Khải, bút hiệu Á Nam, (1895 - 1983), quê ở Mỹ Lộc, Nam Định, là một nhà Nho có tư tưởng yêu nước và tiến bộ đầu thế kỉ XX.

- Ông làm nhiều bài thơ lục bát, song thất lục bát, kín đáo bày tỏ lòng yêu nước của mình và khơi gợi ý thức dân tộc trong lòng mọi người. Thơ ông được phổ biến khá rộng rãi.

- Bài thơ Hai chữ nước nhà in trong tập Bút quan hoài I, xuất bản năm 1924, mượn đề tài trong lịch sử là cuộc chia tay nổi tiếng của cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để để cao chí nam nhi, đề cao bổn phận cứu dân cứu nước trong tình cảnh hiện tại. Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 36 câu là phần mở đầu của cả bài thơ dài 101 câu.

2. Thân bài:

* Tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh ngộ éo le:

- Những lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh với con trai giống như là lời trăng trối trước giờ vĩnh biệt. Âm hưởng lâm li, thống thiết, nội dung chất chứa tâm trạng đau đớn, buồn thương trước cảnh nước mất nhà tan. Khung cảnh buổi chia li tô đậm nỗi sầu chất ngất trong lòng người xa xứ: Chốn ải Bắc... bất bình.

- Giữa thiên nhiên và con người dường như có sự đồng cảm sâu sắc. Tình cảm yêu nước được thể hiện qua những hình ảnh ước lệ trong văn chương cổ nhưng cảm xúc thì rất chân thực: Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước... Anh hùng sự nghiệp xưa nay kém gì.

- Cha khuyên con những điều tâm huyết, mong con lấy chữ trung với nước thay cho chữ hiếu với cha, nối nghiệp sáng của tổ tông, một lòng vì quốc gia, dân tộc.

- Lời khuyên của người cha vừa xúc động vừa thiêng liêng, khiến người con phải khắc cốt ghi xương và làm theo.

* Hiện tình đất nước trong cảnh ngộ nô lệ đầy đau thương, tang tóc:

- Tác giả kín đáo mượn chuyện xưa để nói chuyện nay. Thời cha con Nguyễn Trãi, giặc Minh xâm lược nước ta, gây ra bao tội ác trời không dung, đất không tha. Thời nay, thực dân Pháp cướp nước ta, đẩy dân ta vào vòng nô lệ lầm than, đói khổ.

- Những câu thơ xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước của dân ta. Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao: kể sao xiết kể, xé tâm can, thương tâm, lầm than... Nhiều hình ảnh gây xúc động thấm thía: Bốn phương khói lửa tưng bừng... xương rừng máu sông... thành tung quách võ, bỏ vợ lìa con, xiêu tán hao mòn... Ngậm ngùi đất khóc trời than... phản ảnh chính xác tình hình nước ta đầu thế kỉ XX dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến.

* Ước nguyện tha thiết của cha đối với con:

- Nỗi đau xót vì lực bất tòng tâm.

- Muốn trao gửi lại niềm tin, hi vọng vào con: Giang sơn gánh vác sau này cậy con.

- Lời khuyên của cha là lời tâm huyết, gan ruột trao lại cho con, động viên, hun đúc chí nam nhi trước vận mệnh đất nước.

3. Kết bài:

- Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng nhất của Á Nam Trần Tuấn Khải.

- Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “Hai chữ nước nhà được xem là bài thơ hay nhất đã tổng hợp các môtíp văn thơ yêu nước của Á Nam...”.

II. BÀI LÀM

Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam, quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Là một nhà Nho tiến bộ, ông thường mượn đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước, thái độ căm giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình, đồng thời động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào. Thơ Trần Tuấn Khải được truyền tụng rộng rãi trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, nổi tiếng nhất là những bài hát theo làn điệu dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai chữ nước nhà được viết dưới hình thức thơ lục bát và song thất lục bát.

Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, sáng tác vào năm 1924. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh, một viên quan tài giỏi của triều đình phong kiến đương thời bị giặc bắt đem sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi định đi theo để chăm sóc cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con nên quay về để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.

Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 36 câu là phần mở đầu của bài thơ dài 101 câu, nội dung kể lại cuộc chia tay đầy ý nghĩa của cha con Nguyễn Trãi đã được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm đau thương và oanh liệt của dân tộc. Trong cảnh ngộ đau thương, Nguyễn Phi Khanh gạt lệ khuyên con trai bao điều hữu ích. Đất nước thịnh suy là lẽ thường tình. Làm trai phải biết nuốt hận, chờ thời cơ để trả nợ nước, báo thù nhà. Người cha già lực bất tòng tâm, đành gửi trọn niềm tin vào con trai, mong con nối chí lớn của mình, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng đất nước.

Đoạn trích có thể chia làm ba phần:

Phần 1: Từ đầu... đến lời cha khuyên: Tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh ngộ éo le.

Phần 2: Tiếp theo... đến sau đó mà: Hiện tình đất nước trong cảnh đau thương, tang tóc.

Phần còn lại: Sự bất lực của người cha và lời trao gửi tâm huyết dành cho con.

Tại sao tác giả lại lấy Hai chữ nước nhà làm tựa đề của bài thơ? Tựa đề đó gắn với tư tưởng chung của bài thơ như thế nào?

Nước và nhà vốn là hai khái niệm, nhưng trong hoàn cảnh riêng của hai cha con Nguyễn Trãi thời xưa (thế kỉ XV) và hoàn cảnh chung của đất nước ta vào những năm đầu thế kỉ XX thì hai khái niệm đó lại có mối liên quan không thể tách rời. Nước mất thì nhà tan. Thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa. Bởi thế Nguyễn Phi Khanh muốn nhắc nhở con là hãy lấy nước làm nhà, lấy cái nghĩa với nước thay cho chữ hiếu với cha, như thế là vẹn cả đôi đường.

Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả đã tái hiện khá đầy đủ khung cảnh buổi chia li và tâm trạng đau thương, khắc khoải của hai cha con Nguyễn Trãi. Điều đó giống như “gảy đúng vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người”. (Xuân Diệu).

Có thể coi những lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh trong bối cảnh nước mất, nhà tan là lời trăng trối của cha với con trong giờ vĩnh biệt. Các câu cảm thán đã tạo nên âm hưởng lâm li, thống thiết. Thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng nặng trĩu buồn thương của nhân vật.

Nội dung bài thơ không chỉ đơn thuần mang tính chất hoài cổ mà nó chất chứa tâm sự phẫn uất, đau thương của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan trong hiện tại. Vì vậy, nó làm rung động lòng người và được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức, thanh niên và học sinh yêu nước.

Bốn câu thơ đầu là khung cảnh cuộc chia li:

Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,

Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.

Bốn bề hổ thét chim kêu,

Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.

Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra ở biên ải phía Bắc vốn là nơi ảm đạm, heo hút, bốn bề rừng núi trập trùng, mây sầu, gió thảm, hổ thét, chim kêu... Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây là điểm dừng chân cuối cùng để rồi vĩnh viễn xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người ruột thịt. Tâm trạng đau đớn của kẻ bị lưu đày biệt xứ đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc, thê lương và ngược lại, cảnh vật ấy càng như giục cơn sầu trong lòng người vốn nặng tình non nước.

Tình cảm yêu nước của tác giả đã biến những hình ảnh ước lệ và từ ngữ sáo mòn trong thơ cổ điển thành chân thực và cảm động. Dường như tác giả được trực tiếp chứng kiến cuộc chia tay đau đớn ấy và hoá thân vào cả kẻ ở lẫn người đi để thấu hiểu, đồng cảm với tâm trạng nhân vật, từ đó viết nên những dòng thơ máu hoà nước mắt:

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,

Chút thân tàn lần bước dặm khơi,

Trông con tầm tã châu rơi,

Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.

Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,

Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.

Giời Nam riêng một cõi này,

Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!

Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: cha bị giặc bắt giải sang Tàu, không mong ngày trở lại; con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc đền nợ nước, trả thù nhà. Đối với cả hai cha con, nghĩa nước, tình nhà đều thiêng liêng sâu đậm.

Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lòng họ càng tăng lên gấp bội. Nguyễn Phi Khanh khuyên con những điều tâm huyết. Trước hết, ông nhắc nhở con về dòng giống cao quý của dân tộc Việt: Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định. Sau đó phân tích cho con hiểu về quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải trải qua các giai đoạn hưng thịnh và suy vong nhưng gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước thì xưa nay không hiếm và không kém gì những gương sáng trong lịch sử phong kiến phương Bắc. Để bảo vệ đất nước, người phụ nữ còn làm nghĩa hiệp, huống chi các bậc nam nhi?!

Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi - người con mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động vô cùng, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.

Tác giả hoá thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị biệt xứ lưu đày, tâm tư trĩu nặng nỗi lo đời để miêu tả tình hình bi thảm của đất nước và lên án tội ác trời không dung đất không tha của quân xâm lược:

Than vận nước gặp khi biến đổi,

Để quân Minh thừa hội xâm lăng,

Bốn phương khói lửa bừng bừng,

Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!

Nơi đô thị thành tung quách vỡ,

Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,

Làm cho xiêu tán hao mòn,

Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

Những câu thơ này xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước trong tâm can người đọc đương thời. Giặc Pháp bây giờ nào có khác chi giặc Minh thuở ấy, cũng đang gây ra bao cảnh đau thương tang tóc trên đất nước ta.

Xen giữa những dòng tâm tư đắng cay, chua xót là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi thương:

Thảm vong quốc kể sao xiết kể,

Trông cơ đồ nhường xé tâm can,

Ngậm ngùi đất khóc giời than,

Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như: kể sao xiết kể, xé tâm can, thương tâm, lầm than đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Gây xúc động nhất là hình ảnh: Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là “tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết” đúng như nhận định của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao, vượt lên số phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con là một tiếng than, tiếng nấc nghẹn ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn Khải rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhân vật Nguyễn Phi Khanh. Do đó bài thơ có sức lay động lòng người, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu đương thời.

Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn không lúc nào nguôi trong lòng ông:

Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,

Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,

Con ơi! Càng nói càng đau,

Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?

Tác giả mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng còn gọi là Nhị Hà) - biểu tượng của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình. Cơ nghiệp lớn lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời, nay con cháu há lại để rơi vào tay giặc dữ?

Nói đến tình cảnh “lực bất tòng tâm” của Nguyễn Phi Khanh, ngòi bút tác giả như đẫm nước mắt:

Cha xót phận tuổi già sức yếu,

Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,

Thân lươn bao quản vũng lầy,

Giang sơn gánh vác sau này cậy con.

Con nên nhớ tổ tông khi trước,

Đã từng phen vì nước gian lao.

Bắc Nam bờ cõi phân mao,

Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây...

Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều là lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho con. Gánh nặng sơn hà, xã tắc đã uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng. Lời khuyên của cha kích thích, hun đúc chí nam nhi của con, động viên con hãy tỏ ra xứng đáng với sự nghiệp oanh liệt của tổ tông đã bao phen vì nước.

Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Á Nam Trần Tuấn Khải. Tác giả tái hiện cuộc chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan để thông qua đó bộc lộ cảm xúc của mình, đồng thời khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào ta. Tình cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà của tác giả đã tạo nên sức sống lâu dài cho bài thơ.

Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rất đúng:“Hai chữ nước nhà được xem là bài thơ hay nhất đã tổng hợp các môtíp văn thơ yêu nước của Á Nam, từ giọng bi tráng đến giọng mỉa mai, từ chất căm hờn đến lời mắng mỏ, từ sự dỗi tức nguyền rủa bọn Việt gian chết tiệt đến nỗi đau thương ôm lấy bà mẹ giang san”.