I. DÀN Ý

1. Mở bài:

* Giới thiệu vài nét về tác giả:

- Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Tây.

- Lấy tên núi Tản (Ba Vì), sông Đà ghép lại thành bút danh.

- Là nhà thơ nổi tiếng trong những thập niên đầu thế kỉ XX, có công đem đến sức sống mới cho thơ ca tiếng Việt.

- Bài thơ Muốn làm thằng Cuội trích trong tập Khối tình con in năm 1917, thể hiện khát vọng thoát khỏi cõi đời trần tục đầy nhiễu nhương để đến với thế giới trong sạch, tự do của thi sĩ.

2. Thân bài:

* Phân tích nội dung và nghệ thuật của bài thơ: (theo thể thất ngôn bát cú Đường luật).

+ Hai câu đề:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi,

- Bộc bạch tâm trạng buồn chán trước thực tại của nhà thơ.

- Bất bình và xã hội bất công, nhiễu nhương, ngột ngạt, thiếu tự do. Giọng điệu thơ da diết, ảo não, chán ngán. Nghệ thuật nhân hoá (chị Hằng), cách xưng hô (em) khiến tính chất trữ tình thêm đậm đà, chân thực.

+ Hai câu thực:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

- Vẫn tiếp tục là lời giãi bày tâm sự và cầu xin một cách giải thoát.

- Độc đáo ở chỗ tác giả muốn thoát trần lên trăng, tách biệt hẳn thế giới trần tục đáng chán ghét. Đây là kiểu sầu mộng mang đậm dấu ấn Tản Đà.

+ Hai câu luận:

Có bầu có bạn can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

- Trí tưởng tượng của nhà thơ bay bổng. Ông muốn như thằng Cuội ngồi dưới gốc đa trên cung Quảng để suốt đời được bầu bạn với gió trăng, quên hẳn cõi đời ô trọc.

- Sự bất bình trước thực tại được đẩy đến mức cao độ dưới hình thức khát khao, mộng tưởng kì lạ.

- Niềm vui đã át nỗi buồn ở phần đầu bài thơ. Âm hưởng thơ nhẹ nhàng, thanh thản.

+ Hai câu kết:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

- Phản ánh rất rõ tâm trạng Tản Đà, cảm thấy cuộc sống đương thời thật chật hẹp, tù túng, đáng buồn, đáng cười...

- Muốn được thành tiên (như chị Hằng), được kết bạn với chị Hằng lâu dài để: Tựa nhau trông xuống thế gian cười. (Cười vào mặt những kẻ xấu xa, độc ác, cười vào thói đời nhỏ nhen, ích kỉ, đáng chán, đáng khinh).

3. Kết bài:

- Bài thơ Muốn làm thằng Cuội có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu cho phong cách Tản Đà

- một nhà thơ đa tài, đa tình, ngông nghênh và hay sầu mộng.

- Bài thơ phản ánh khát vọng tự do mãnh liệt của tác giả nói riêng và của cả một lớp người có tâm huyết trước nỗi đau mất nước thuở ấy.

II. BÀI LÀM

Nước gợn sông Đà con cá nhảy,

Mây trùm non Tản cái diều bay.

Tản Đà là bút danh của nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu, được ghép từ tên núi Tản Viên (Ba Vì) và sông Đà, thuộc tỉnh Sơn Tây (cũ), quê hương tác giả. (Tản Viên ở trước mặt, Đà giang bên cạnh nhà - Tản Đà).

Trên thi đàn Việt Nam đầu thế kỉ hai mươi, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một hiện tượng đột xuất, dồi dào năng lực sáng tạo. Ông đã đem đến cho thi ca tiếng Việt một sức sống mới, tạo tiền đề cho sự cách tân mạnh mẽ của trào lưu Thơ mới sau này.

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa Tây nửa ta, thơ Tản Đà phản ánh sự bất bình trước thực tại rối ren, ngột ngạt; đồng thời thể hiện tấm lòng cao khiết, phong thái ung dung cùng một hồn thơ bay bổng, phóng khoáng, in đậm cá tính và nét đa tình của người nghệ sĩ.

Thoát trần lên trăng là chủ đề của bài thơ Muốn làm thằng Cuội, in lần đầu trong tác phẩm Khối tình con năm 1917. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện khát vọng được thoát khỏi cõi đời ô trọc đương thời để đến với một thế giới đẹp đẽ, tự do. Bài thơ này bộc lộ khá rõ nét đặc trưng trong phong cách thơ Tản Đà.

Muốn làm thằng Cuội được làm theo thể thất ngôn bát cú của thơ Đường, niêm luật rõ ràng, đối ý, đối thanh rất chỉnh. Giọng điệu chung của bài thơ là tâm tình tha thiết của thi sĩ:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi,

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Có bầu có bạn can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Hai câu đề bộc bạch tâm trạng buồn chán của nhà thơ trong đêm thu trăng sáng. Thi sĩ than thở: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi! Trần thế em nay chán nửa rồi. Nỗi buồn của nhà thơ không kìm nén được đã thốt nên lời. Vẻ đẹp huyền ảo của cảnh vật cũng không khoả lấp được nỗi buồn canh cánh bên lòng. Nhà thơ bất bình trước thực tại xã hội tối tăm, bế tắc. Cuộc sống ngột ngạt, tù túng làm sao dung nạp được một tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do như Tản Đà? Con chim trong lồng muốn cất cánh bay xa. Nhưng đi đâu trong khi xã hội thực dân phong kiến đương thời như một nhà tù lớn giam hãm con người?! Thi sĩ đã chọn trăng, một địa điểm tuyệt vời tĩnh lặng, cách biệt hẳn với cõi tục lắm nhiễu nhương, buồn khổ. Trên cung Quảng, nhà thơ sẽ tha hồ giãi bày tâm sự.

Nhà thơ gọi trăng là chị Hằng, xưng là em nghe mới êm ái, dịu ngọt làm sao! Nếu chị Hằng nghe được, chắc trái tim chị cũng xao xuyến bồi hồi bởi giọng điệu thiết tha của nhà thơ đa tình ấy.

Chán cuộc đời trần thế tù túng, Tản Đà khao khát được thoát li, lánh mình vào chốn thiên nhiên vĩnh cửu:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Nhà thơ ướm hỏi chị Hằng trên cung Quảng là đã có kẻ nào chán đời trốn lên cõi tiên trước mình chưa, rồi mới khẩn khoản thỉnh cầu: Cành đa xin chị nhắc lên chơi!

Dường như nhà thơ ao ước muốn trở lại làm con trẻ như thuở nào, đêm Trung thu rước đèn, phá cỗ trông trăng, thi nhau tìm cây đa, chú Cuội và thầm mong được chị Hằng nhắc lên chơi, để vui vầy thoả thích với trăng sao, mây gió. Trở lại tuổi thơ ấu hồn nhiên trong sáng để giữ sạch bụi trần, gạt bỏ ngoài tai, ngoài mắt những điều trông thấy mà đau đớn lòng trong suốt nửa đời người. Trở lại tuổi thơ cho hợp với giọng điệu nũng nịu, tha thiết của lời thỉnh nguyện đặc biệt có một không hai, rất hư ảo, viển vông, lãng mạn và rất... Tản Đà!

Cảnh và tình trong hai câu đề là nỗi buồn chán thấm thía nhưng giọng điệu lại lộ ra nét cười hóm hỉnh. Ở hai câu thực, nỗi buồn chỉ còn phảng phất và đến hai câu luận thì niềm vui đã bộc lộ rõ khi nhà thơ tưởng tượng mình đang được sống cùng tiên nữ Hằng Nga:

Có bầu có bạn can chi tủi

Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Nhà thơ muốn làm thằng Cuội để giải thoát nỗi buồn tích tụ bấy lâu nay. Sống trên cung trăng, thi sĩ vừa thoát khỏi cảnh đục trong của chốn nhân gian, vừa thoả mãn thú tiêu dao được bầu bạn cùng mây gió. Nhưng thích nhất vẫn là được lưng tựa vai kề với chị Hằng, nàng tiên đẹp nhất của cõi trời:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Hai câu kết phản ánh rất rõ tâm trạng nhà thơ. Khi đã thoát tục thành tiên, nhìn xuống trần gian, thi sĩ thấy thế giới mình sống trước đây thật nhỏ bé, chật chội, tù túng và đủ mọi chuyện nực cười. Nhà thơ muốn được thành tiên để cười vào thói bon chen danh lợi, đố kị, ích kỉ và cảnh lo toan miếng cơm, manh áo chật vật của kiếp người.

Nếu giọng điệu ở câu luận giống như lời tự nhủ: Có bầu có bạn can chi tủi thì cái cười của thi sĩ ở câu kết đã bật lên thành tiếng. Sau chuỗi cười dài ấy, thi sĩ từ cõi mộng trở về với cõi thực thì nỗi buồn lại đầy ắp trái tim. Mộng được lên tiên chỉ là niềm vui tinh thần tự tạo của Tản Đà. Nó là ảo giác, là khát vọng ám ảnh bởi nhà thơ suốt đời phải sống trong thực tế phũ phàng. Bài thơ không gây ra cảm giác bi quan, yếm thế mà gợi lên nỗi buồn man mác, thấm thía, thôi thúc người đọc đến với tự do.

Muốn làm thằng Cuội là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Tản Đà, một nhà thơ nổi tiếng là ngông và hay sầu mộng.

Thi sĩ ngông vì ông là người thực sự có tài và dám tự khẳng định tài năng của mình:

Vùng đất Sơn Tây nảy một ông,

Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng.

Núi Tản, sông Đà ai hun đúc,

Bút thánh câu thần sớm vãi vung.

Tài năng ấy được khẳng định, được mọi người mến mộ và đánh giá cao nhưng con đường công danh của thi sĩ lại quá lận đận, rủi ro:

Bởi ông hay quá ông không đỗ,

Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.

Cái ngông của Tản Đà còn thể hiện ở ý thức về nhân cách của mình. Ông không bị tiền tài cám dỗ, không bon chen trong vòng danh lợi, nhục vinh mà chấp nhận cảnh sống thanh bần:

Người ta hơn tớ cái phong lưu,

Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo.

Cái ngông của Tản Đà còn thể hiện ở nỗi khao khát được giãi bày, chia sẻ tình cảm, tâm tư với mọi người. Ông sống phóng khoáng, có nhiều ước mơ, dù những ước mơ ấy mang màu sắc hoang đường, huyễn hoặc. Cái ngông của Tản Đà cũng bộc lộ rất rõ qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội. Ngông ở chỗ thi sĩ dám xin chị Hằng cho lên ở cùng trên cung Quảng. Trong khi Chế Lan Viên trốn vào tháp ngà văn chương, sống cô đơn với quá khứ đau thương; Xuân Diệu trốn vào tình yêu; Huy Cận giấu mình vào nỗi buồn vũ trụ... thì Tản Đà lại trốn lên trăng.

Tản Đà ngông vì muốn được làm bạn với Hằng Nga, với gió, với mây và nhất là được thành tri âm tri kỉ với chị Hằng: Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám, Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Trong xã hội thối nát đương thời, bao kẻ vì ham hai chữ lợi danh mà đánh mất nhân cách. Tản Đà muốn thoát tục để giữ mình trong sạch, hướng tới tự do cao cả. Đó là cái ngông đặc biệt đáng quý của thi sĩ.

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội hay về nội dung, độc đáo về nghệ thuật, tiêu biểu cho phong cách tài hoa của nhà thơ núi Tản sông Đà. Bài thơ đã được dệt nên bằng sức tưởng tượng vô cùng phong phú của một thi sĩ tài hoa. Bài thơ viết theo thể Đường luật nhưng người đọc nhận thấy nó tự nhiên như lời nói hằng ngày, phảng phất âm hưởng của ca dao, dân ca bởi vì nhà thơ đã biết vận dụng linh hoạt ngôn ngữ bình dị, trong trẻo của tiếng Việt vào thể thơ Đường. Nhà thơ buồn chán trước hiện thực xã hội đương thời, muốn thoát li nhưng lại đi vào mộng tưởng. Đây là giấc mộng táo bạo hợp với tính cách, con người nhà thơ. Nỗi buồn của Tản Đà không dừng ở nỗi buồn thân thế mà còn là nỗi buồn thời đại, là tâm trạng chung của tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ.