BÀI LÀM

Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục là một lớp kịch trọn vẹn (lớp 5, hồi II) trích từ hài kịch nổi tiếng Trưởng giả học làm sang của Mô-li-e, nhà hài kịch cổ điển ở Pháp. Lớp kịch có hai cảnh rõ rệt: cảnh một gồm những lời thoại giữa ông Giuốc-đanh và bác phó may, cảnh hai gồm những lời thoại của ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ. Thông qua cử chỉ, hành động và nhất là lời thoại của các nhân vật, tất cả đều mang yếu tố hài, kết hợp với cách bố trí cảnh và không khí sân khấu để đem lại cho khán giả những trận cười nổ ra tưởng như vô hạn.

Sau lớp 4 của hồi II (ông Giuốc-đanh muốn trở thành bác học) có nội dung: muốn trở thành nhà quý tộc thì phải giỏi, phải hiểu biết về triết, về ngôn ngữ học, phải biết viết thư tình. Vẫn chưa đủ. Còn phải sang trọng, phải có lễ phục, vì thế ông Giuốc-đanh đã ném vàng bạc ra mua loại vải hoa cực tốt, thúc thợ may may bộ lễ phục: đẹp nhất triều đình, phải sắm đủ tất, giày hảo hạng.

Mời khán giả hãy đến sân khấu của hài kịch nước Pháp để thưởng thức cảnh thứ nhất của lớp kịch: Ông Giuốc-đanh với bác phó may.

A! Bác đã tới đấy à? Tôi sắp phát khùng lên vì bác đây. Đó là lời reo lên vừa vui mừng, vừa trách móc của ông Giuốc-đanh khi bác phó may xuất hiện. Vì sao ông Giuốc-đanh lại có thái độ như vậy? Vì háo hức mong đợi muốn được mặc lễ phục. Vốn là kẻ lắm tiền, thích học đòi làm sang, nhưng ngờ nghệch nên ông Giuốc-đanh đã lần lượt bị gã phó may mơn trớn, lừa bịp. Mọi thứ mà trưởng giả gửi mua đều là hàng rởm. Bít tất lụa quá chật, mới xỏ chân vào đã đứt mất hai mắt rồi! Đôi giày không đúng số, đúng cỡ làm đau chân ghê gớm. Khán giả bật cười khi phó may “lấp liếm” bít tất rồi nó giãn ra thì ông Giuốc-đanh ngớ ngẩn phụ hoạ: Phải, nếu tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật. Càng buồn cười hơn khi nghe bác phó may giải thích: đôi giày không làm ngài đau đâu mà chỉ vì ngài cứ tưởng tượng ra thế thì vị trưởng giả phân bua vừa hể hả: Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lý luận hay nhỉ. Chân to mà giày nhỏ thì đi vào sẽ đau chân, đau chân là cảm giác. Không phân biệt được cảm giác với tưởng tượng là vì ngờ nghệch, nói “thô” hơn có nghĩa là ngu dốt. Nói tưởng tượng chỉ là sự nguy biện, lừa bịp mà thôi! Thế mà một con người vừa học triết để làm nhà bác học nghe vẫn thấy xuôi tai.

Lại còn bộ lễ phục nữa chứ! Đẹp nhất triều đình may bằng thứ vải hoa cực tốt. Oái oăm thay, bộ lễ phục lại may hoa ngược mất rồi! Nực cười thay! Nghe gã phó may bảo là những người quý phái đều mặc như thế này cả thì ông Giuốc-đanh rối rít hỏi lại hồn nhiên đến khờ dại: Những người quý phái mặc áo hoa ngược ư? Ô! Thế thì bộ áo này may được đấy!

Rồi ông Giuốc-đanh hỏi phó may về chiếc áo có vừa vặn không, bộ tóc giả và lông đính mũ có được chững chạc không? Câu trả lời hoa mĩ của gã phó may Còn phải nói! Tôi đố họa sĩ nào lấy bút mà vẽ hầu ngài bộ áo vừa khít hơn được... rồi lại tiếp chững chạc tuốt đã làm cho sự đắc ý của ông Giuốc-đanh lên đến tột độ khi có bộ lễ phục đúng mốt quý tộc, mà lúc đó lễ phục quý tộc đúng mốt thời thượng Pháp (thế kỉ XVI - XVII) phải may bằng vải đen, dạ, màu đen và may xuôi hoa. Khi phát hiện ra gã phó may đã cắt xén vải may lễ phục để may áo, ông Giuốc-đanh đã cất lời trách móc nhưng đã bị gã phó may đánh trống lảng bằng cách mời ông ta mặc thử bộ lễ phục. Sự gợi ý này đã đánh trúng vào tâm lý nhanh chóng trở thành người quý phái của Giuốc-đanh và thế là bác phó may đang từ thế bị động đã chuyển sang thế chủ động trước ông Giuốc-đanh.

Lão trưởng giả không chỉ dốt nát, ngờ nghệch bị gã phó may lừa bịp mà còn lộ chân tướng một kẻ lố bịch như một con rối, một thằng hề không hơn không kém. Phó may đã đem theo bốn thợ phụ để hầu ông Giuốc-đanh mặc lễ phục đúng thể thức, mặc theo nhịp điệu, theo cách thức mặc cho các nhà quý phái. Cái quần cộc đã được hai chú thợ “cởi tuột” ra! Hai thợ phụ khác đã lột áo ngắn rồi mặc lễ phục mới cho ông. Buồn cười nhất là cử chỉ, hành động của ông Giuốc-đanh: phô áo mới, đi đi lại lại giữa đám thợ. Càng hợm hĩnh bao nhiều càng buồn cười bấy nhiêu: cởi áo, mặc áo, chân bước, miệng nói, tất cả đều theo nhịp điệu của dàn nhạc. Phải chăng sự háo danh muốn trở thành quý tộc đã biến Giuốc-đanh thành con người ngu dốt, ngờ nghệch và lố bịch đến mức đó sao?

Cảnh thứ hai diễn ra cuộc đối thoại giữa ông Giuốc-đanh và các tay thợ phụ (có tốp thợ phụ hỗ trợ giúp ông Giuốc-đanh mặc lễ phục). Người xem chắc chắn không thể không bật cười vì cảnh ông Giuốc-đanh xúng xính khoác áo trong âm thanh tiếng nhạc, và tiếng cười ấy cứ thế kéo dài suốt cảnh kịch khi nghe những lời đối thoại giữa Giuốc-đanh và bọn thợ phụ. Vốn biết tâm lí của ông Giuốc-đanh, chúng xúm vào tâng bốc lão trưởng giả lên tận mây xanh để moi tiền. Chỉ ba tiếng Bẩm ông lớn đã làm cho Giuốc-đanh vô cùng hả dạ: Ông lớn? Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì phải thế đấy!... Bọn thợ phụ lại tung hô: Bẩm cụ lớn, anh em chúng tôi đội ơn cụ lớn lắm lắm. Quá cảm động, quá sung sướng, hay nhờ thầy triết dạy ngôn ngữ, dạy phát âm, dạy viết thư tình mà ông Giuốc-đanh nói rất hiển hách: Cụ lớn, ồ ồ cụ lớn!... Cái tiếng cụ lớn đáng thưởng lắm. Cụ lớn không phải là một tiếng tầm thường đâu nhé. Bọn thợ phụ đã được cụ lớn thưởng! Bọn thợ phụ lại tôn Giuốc-đanh thành Đức ông. Hả hê lắm, khoái chí lắm, kẻ háo danh đắc chí nói cười: lại Đức ông nữa! Hà hà! Thật buồn cười là khi lão Giuốc-đanh vừa móc tiền thưởng cho bọn thợ phụ, vừa nói riêng với mình như vừa mê, vừa tỉnh, vừa khoái chí vì được tâng bốc là đức ông, nhưng cũng vừa tự biết: của đáng tội, nếu nó tôn ta lên bậc tướng công, thì nó sẽ được cả túi tiền mất. Cảnh bọn thợ phụ tôn vinh lão trưởng giả từ ông lớn lên cụ lớn rồi trở thành Đức ông, Mô-li-e đã nâng cao dần kịch tính, làm nổ tung ra những trận cười châm biếm thói hợm hĩnh, háo danh, ưa phỉnh nịnh, thích được tâng bốc của bọn quý tộc phong kiến lỗi thời, bọn tư sản đang lên nhưng chứa đầy ung nhọt.

Cảnh Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục đã diễn ra tại tư dinh của ông ta, bên cạnh lão trưởng giả còn có lão phó may, một kẻ ranh mãnh và bịp bợm; bọn thợ phụ giỏi hót, khéo moi tiền. Qua những nhân vật này, Mô-li-e đã châm biếm, giễu cợt và đả kích sự ngu dốt, ngờ nghệch, thói háo danh vô cùng lố bịch của Giuốc-đanh, điển hình cho bọn trưởng giả học làm sang. Tiếng cười trong hài kịch của Mô-li-e là tiếng cười có giá trị phê phán sâu sắc, mang ý nghĩa xã hội rất tiến bộ. Hai cánh màn của sân khấu đã khép lại, kết thúc lớp 5 hồi II của vở kịch Trưởng giả học làm sang nhưng không khép được những trận cười thú vị hướng về Đức ông xúng xính trong bộ lễ phục may hoa ngược, đi đi lại lại giữa đám thợ phụ theo nhịp của dàn nhạc. Chân tướng một trưởng giả học làm sang vừa ngu dốt vừa háo danh, một gã phó may láu cá, bịp bợm, một bọn thợ phụ ma ranh. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có. Tất cả được thể hiện bằng nghệ thuật châm biếm bậc thầy của Mô-li-e, tạo nên tiếng cười thoải mái cho khán giả, sau những trận cười là những suy ngẫm về những trò lố bịch và được trình diễn trên sân khấu. Đây đúng là sân khấu cũng là cuộc đời!

Đã nhiều thế kỉ trôi qua mà sự phê phán hiện thực của vở hài kịch Trưởng giả học làm sang của nhà văn Pháp Mô-li-e vẫn còn dư sức hấp dẫn đối với mọi người và sống mãi với thời gian.