BÀI LÀM

Phan Châu Trinh (1872 - 1926) hiệu là Tây Hồ, quê ở Tây Lộc, huyện Hà Đông (Quảng Ngãi). Ông từng đỗ phó bảng, được bổ dụng một chức quan nhỏ, nhưng một thời gian ngắn đã bỏ quan, chuyên tâm vào sự nghiệp cứu nước. Trong những năm đầu của thế kỉ XX, Phan Châu Trinh là người để xướng dân chủ, đòi bãi bỏ chế độ quân chủ sớm nhất ở Việt Nam. Hoạt động cứu nước của ông đa dạng, phong phú và sôi nổi trong nước, có lúc ở Pháp, Nhật. Phan Châu Trinh là người giỏi biện luận và có tài văn chương. Văn chính luận của ông rất hùng hồn, đanh thép, văn thơ trữ tình đều thấm đẫm tinh thần yêu nước và dân chủ. Ông viết rất nhiều, trong đó có những tác phẩm như Tây Hồ thi tập, Tỉnh quốc hồn ca. Năm 1908, Phan Châu Trinh bị khép tội xúi giục nhân dân nổi loạn trong phong trào trốn thuế ở Trung Kì nên bị bắt đày ra Côn Đảo. Đến tháng 6 năm 1910, nhờ sự can thiệp của Hội nhân quyền Pháp ông mới được tha. Bài thơ này được làm trong thời gian ông cùng các tù nhân khác bị bắt lao động khổ sai.

Mượn chuyện đập đá của tù khổ sai trên đảo Côn Lôn, tác giả bày tỏ khí phách ngang tàng, coi thường mọi gian nan thử thách, luôn giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của người chiến sĩ yêu nước.

Làm trai đứng ở đất Côn Lôn

Lừng lẫy làm cho lở núi non

Hai câu đề thể hiện một tư thế ngang tàng của một đấng nam nhi, không phải khom lưng quỳ gối trước quan trường mà đang đứng giữa đất Côn Lôn, một nhà tù, một địa ngục trần gian. Câu thơ “lừng lẫy làm cho lở núi non” bao hàm hai ý nghĩa. Công việc hàng ngày của những người tù là đập đá hay phá đá ở núi đó là nghĩa thực, nhưng ẩn đằng sau là một nghĩa khác đó chính là khí phách nam nhi có thể làm lở núi non. Đầu đội trời chân đạp đất, tai nghe sóng vỗ suốt ngày. Hai chữ “lừng lẫy” có nghĩa là vang động, chấn động. Công việc của người tù là đập đá, đó là một công việc khổ sai, là một thử thách vô cùng nặng nề, nhưng đối với kẻ làm trai thì càng thể hiện cái khí phách, uy dũng của mình. Giọng thơ mạnh mẽ, một lối nói khoa trương rất ấn tượng về chí nam nhi sẵn sàng chấp nhận thử thách, sống hiên ngang. Hai câu thực là hai câu đối nhau:

Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn

Nghĩa đen của hai câu thơ này đó là công việc khổ sai thường ngày của những người tù. Công cụ lao động là “búa”, “tay”; hành động mạnh mẽ là “đánh tan” và “đập bể”. Không phải một hòn đá nhỏ mà năm bảy đống và mấy trăm hòn. Hai câu 3, 4 mang hàm nghĩa sâu sắc thể hiện một quyết tâm sắt đá, một ý chí hào hùng, không nao núng, không lùi bước trước gian khổ. Ta có cảm tưởng như nhà thơ đang nung nấu chất chứa bao căm thù nên muốn đánh tan, muốn đập bể mọi kẻ thù.

Dù công việc có khó khăn vất vả đi chăng nữa thì người tù vẫn lòng dạ sắt son.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son

Hai câu thực tác giả sử dụng hình ảnh tượng trưng và ẩn dụ rất đặc sắc. “Tháng ngày" chỉ thời gian bị tù đày, bị khổ sai kéo dài, “mưa nắng" tượng trưng cho gian khổ, gian nan, cho mọi nhục hình đày đoạ. Trước những thử thách ghê gớm ấy, người chiến sĩ “bao quản” càng bền chí khí. Môi trường khắc nghiệt của nhà tù không làm người chiến sĩ nhụt ý chí mà làm cho họ thêm mạnh mẽ hơn. “Thân sành sỏi”, “dạ sắt son” là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí bền vững, lòng sắt son đối với nước với dân của một đấng nam nhi có chí lớn, của một kẻ sĩ chân chính. Phan Châu Trinh đã khẳng định cái cốt cách và tâm thế của mình. Câu thơ vang lên như một lời thề.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.

Hai câu kết Phan Châu Trinh mượn sự tích câu chuyện về Nữ Oa vá trời trong thần thoại Trung Hoa để nói lên ý chí cách mạng, cứu nước, cứu dân. Dù có lỡ bước, có gặp khó khăn, có tạm thời thất bại, dù có nếm trải gian nan cay đắng tù đày thì với người chiến sĩ chân chính việc cỏn con ấy không đáng kể, không đáng nói, không đáng quan tâm. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản (gian nan >< việc cỏn con), dùng cách nói khoa trương (những kẻ vá trời) để biểu hiện dũng khí hiên ngang, tinh thần lạc quan trước cảnh tù đày.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước

Gian nan chi kể việc con con

Những người anh hùng yêu nước khi gặp chuyện không may sẵn sàng lùi bước, không nề hà chi việc con con.

Đập đá ở Côn Lôn là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật rất đặc sắc và độc đáo. Ngôn từ hàm súc. Nhà thơ đã kết hợp giữa tả thực và tượng trưng, sử dụng biện pháp ẩn dụ và nghệ thuật khoa trương, tác giả đã tạo nên những vần thơ đẹp bày tỏ một tư thế ngang tàng, một khí phách hiên ngang, một tấm lòng son sắt thủy chung với nước, với dân, với sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại.