I. DÀN Ý
1. Mở bài
- "Bản án chế độ thực dân Pháp” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp.
- Tác phẩm với nghệ thuật châm biếm tài tình và sắc sảo đã vạch rõ bộ mặt tàn bạo của bọn cá mập thực dân trong việc áp bức bót lột các dân tộc thuộc địa.
- “Thuế máu” là đoạn trích thể hiện sâu sắc cả hai khía cạnh nói trên.
2. Thân bài
a. Nhan đề chương và cách đặt tên các phần
- Nhan đề “Thuế máu” gây cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ:
+ Thông thường người ta thu thuế bằng lương thực, tiền bạc, sức lực
+ Ở đây, thực dân Pháp thu thuế những người dân thuộc địa bằng máu, tức tính mạng con người
- Tố cáo tính chất tàn bạo của chính quyền thực dân.
- Tên các phần của văn bản chỉ rõ từng vấn đề, từng luận điệu của thực dân Pháp như trong một bản cáo trạng.
b. Thái độ của bọn quan cai trị trước và sau chiến tranh cùng số phận bi thảm của những người dân thuộc địa
- Trước chiến tranh, bọn quan cai trị coi những người dân thuộc địa là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu.
- Chiến tranh nổ ra, họ trở thành “con yêu”, “bạn hiền”, được phong danh hiệu tối cao “Chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”.
⇒ Bằng giọng điệu giễu nhại, tác giả đã vạch rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bọn thực dân thể hiện qua thái độ của bọn chúng. Những người dân thuộc địa phải chịu số phận bi thảm vì những lời hoa mĩ dối trá của bọn cai trị:
+ Đột ngột xa lìa vợ con, gia đình, phơi thây trên các bãi chiến trường.
+ Kẻ bị chết chìm dưới biển, kẻ bỏ xác trên chiến trường Ban-căng, kẻ đưa thân cho người ta tàn sát trên các chiến trường nước Pháp.
+ Những người ở hậu phương cũng “khạc ra từng miếng phổi vì hít phải hơi độc” trong xưởng vũ khí.
- Nghệ thuật châm biếm: dùng từ ngữ phong cách cao liền kề với từ ngữ phong cách thấp tạo ra sự đối lập gây nhức nhối cho người đọc, làm nên giọng điệu mỉa mai chua chát và không kém phần đanh thép.
- Đưa ra con số những người tham gia chiến tranh và những người bị chết để tố cáo tội ác của thực dân Pháp một cách thuyết phục.
c. Chế độ lính tình nguyện
- Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ đây là "danh từ mỉa mai một cách ghê tởm”.
- Đưa ra dẫn chứng để vạch trần chân tướng của cái danh từ hoa mĩ này:
+ Thực dân Pháp ép buộc người dân thuộc địa đi lính một cách tàn bạo và thô bỉ.
+ Tạo dịp cho bọn tay sai tiếp tục bóp nặn những con người đã cùng kiệt vì thuế khóa.
+ Đẩy người dân thuộc địa vào con đường phải tìm mọi cách trốn chạy, hoặc tự làm mình mắc những căn bệnh ghê tởm.
- Nhắc lại lời tuyên bố hoa mĩ và điều tra của thực dân Pháp rồi đưa dẫn chứng đập tan giọng điệu của bọn chúng, đập tan tính từ “tình nguyện” mà thực dân Pháp luôn giương ra để lừa bịp dư luận thế giới.
d. Kết quả của sự hi sinh
- Chỉ ra những hành động đê tiện, vong ân phụ nghĩa của thực dân Pháp đối với những người lính sống sót sau chiến tranh.
- Bằng việc phân tích cách thực dân Pháp đền bù cho thương binh và quả phụ chiến tranh là cấp cho họ môn bài bán lẻ thuốc phiện, Nguyễn Ái Quốc vạch rõ trong cùng một hành động mà thực dân Pháp phạm tới hai tội ác với loài người.
- Lời cuối cùng đanh thép như một lời đề nghị kết tội và kêu gọi lương tri nhân loại hãy lên tiếng chống lại thực dân Pháp bảo vệ những người dân thuộc địa đau khổ.
3. Kết bài:
- Đoạn trích với nghệ thuật châm biếm tài tình và sắc sảo đã tố cáo tội ác tàn bạo của thực dân Pháp đối với người dân các nước thuộc địa khi biến họ thành bia đỡ đạn trong chiến tranh phi nghĩa.
- Bày tỏ niềm thương xót đối với những người dân thuộc địa vô tội mà bất hạnh.
- “Thuế máu” là chương thành công nhất của “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
II. BÀI LÀM
“Bản án chế độ thực dân Pháp” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp những năm Người hoạt động cách mạng trên đất nước này. Tác phẩm với nghệ thuật châm biếm, đả kích tài tình, sắc sảo là một đòn mạnh mẽ và quyết liệt đánh thẳng vào chế độ thực dân Pháp, tố cáo những hành động áp bức bóc lột tàn bạo của bọn chúng với người dân các nước thuộc địa. Đoạn trích trong chương “Thuế máu” đã thể hiện một cách sâu sắc cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Mỗi chương trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” đều được tác giả đặt cho một cái tên độc đáo. Nhan đề “Thuế máu” gây cho người đọc một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ. Bởi hầu hết các chế độ cai trị đều chỉ thu thuế người dân của mình bằng tiền bạc, lương thực hay cùng lắm là sức lao động của con người. Vậy mà ở đây, bon cá mập thực dân đã thu thuế những người dân thuộc địa của chúng bằng máu, tức là dùng tính mạng của họ để phục vụ cho những mưu đồ, biến họ thành bia đỡ đạn trong cuộc chiến tranh giành quyền lợi giữa bọn chúng. Sự bóc lột ấy đúng về nghĩa đen với thành ngữ “bóc lột tận xương tủy”. Ngoài tên chương, mỗi phần của văn bản cũng đều được Nguyễn Ái Quốc đặt tên cụ thể. Nó khiến người đọc cảm tưởng như tác giả đang đọc một bản cáo trạng với từng mục tội danh hết sức rõ ràng và chi tiết để khiến cho tội ác của thực dân Pháp hiện lên sừng sững, thật đáng ghê tởm. Trong toàn đoạn trích, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo một cách đanh thép sự bạo tàn của chính quyền thực dân đã gây lên số phận thảm thương cho những người dân thuộc địa vô tội.
Trước chiến tranh, nhân dân thuộc địa bị các quan cai trị gọi là “những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu”. Qua giọng điệu giễu nhại và cách dùng từ của tác giả, chúng ta thấy rõ thái độ khinh miệt tận cùng của bọn chúng với những người dân thuộc địa. Vậy mà khi cuộc chiến tranh nổ ra, bọn quan thầy bỗng chốc gọi họ là những đứa “con yêu”, những “người bạn hiền”, phong cho họ danh hiệu tối cao; “Chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Hai thái độ trái ngược nhau được tác giả đặt cạnh nhau có một đường ranh giới là cuộc chiến tranh khiến cho những lời nói hoa mĩ của thực dân Pháp lộ rõ sự điêu trá một cách trắng trợn. Tái hiện hai thái độ ấy, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bọn thực dân đối với những người dân thuộc địa.
Bộ mặt ấy còn được làm rõ hơn khi tác giả nói về số phận thảm thương của những người lính phải bị bắt đi làm bia đỡ đạn trong cuộc chiến tranh phi nghĩa. Nguyễn Ái Quốc đưa ra những dẫn chứng đầy hình ảnh và cái chết của những con người bất hạnh ấy. Để “bảo vệ cái công lý và tự do mà chính họ chẳng được hưởng một tí nào, họ đột ngột phải xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ để đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu”. Nhiều người "sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được mời xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái”. Kẻ thì “bỏ xác lại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng”, “một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát” “lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy, lấy xương mình chạm lên những chiếc gậy của các ngài thống chế”. Giọng điệu giễu nhại đầy chua chát, những từ ngữ phong cách cao như “mời”, “kì diệu”, “bảo vệ tổ quốc”, “thơ mộng”, “anh dũng”, “vòng nguyệt quế”... được kết hợp với hàng loạt những từ ngữ thuộc phong cách thấp như “phơi thây”, “thủy quái”, “bỏ xác”, “tàn sát”... tạo nên một ấn tượng vô cùng chua xót, vừa thể hiện sự điêu trá bịp bợm của bọn thực dân vừa cho thấy số phận bi thảm của những con người vô tội bị đẩy đến cái chết thảm thương một cách vô cùng tàn bạo. Bọn thực dân đã lấy xương máu của những con người vô tội ấy mà tạo nên vinh quang, quyền lực và những mối lợi cho mình. Đến đây, dường như tác giả chẳng thể dùng lời “ngọt nhạt” mà nói về tội ác tày trời của thực dân Pháp nữa, Người đã viết những dòng cuối phần bằng giọng điệu đanh thép, với những hình ảnh chỉ đích danh tội ác của bọn chúng: “Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không hít phải hơi ngạt của bọn “bô-sơ” nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những con người khốn khổ ấy cũng khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác nào hít phải hơi ngạt vậy”. Nguyễn Ái Quốc hoàn thành phần cáo trạng này bằng một số liệu cụ thể mà chỉ riêng nó thôi cũng đủ sức thuyết phục người ta rằng tội ác của thực dân Pháp là không thể tha thứ: “Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ được trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa”. Như vậy, bằng cách viết giàu hình ảnh, bằng giọng điệu giễu nhại vừa đanh thép vừa mỉa mai về sự tàn bạo của bọn thực dân khi sử dụng những người dân thuộc địa làm bia đỡ đạn trong chiến tranh phi nghĩa để tranh giành quyền lợi giữa chúng.
Đến phần hai của chương mang tên: “Chế độ lính tình nguyện”, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục chỉ ra chân tướng của một cụm từ hoa mĩ mà bọn thực dân vẫn dùng để lừa phỉnh công chúng và dư luận khi bắt những người dân thuộc địa vào lính tham gia chiến tranh. Bản thân tên của phần này đã bao hàm ý mỉa mai và châm biếm. Bởi “tình nguyện” là tính từ chỉ việc làm tự nguyện của con người để làm những công việc phục vụ cho một lí tưởng cao đẹp và họ luôn hướng tới. Vậy nhưng để có một đội quân “tình nguyện” đông đảo làm công cụ cho thực dân Pháp tham chiến thì bọn chúng đã giở biết bao mánh khoé và thủ đoạn vừa tàn bạo vừa bỉ ổi để bắt lính khiến cho người dân thuộc địa coi đó như một thứ vạ, “vạ mộ lính”. Thực dân Pháp đã mở những cuộc săn lùng lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương để săn tìm “thứ vật liệu biết nói” mà bọn chúng gọi là “chế độ lính tình nguyện”. Nguyễn Ái Quốc đã mở ngoặc kép để chỉ đích danh “danh từ mỉa mai một cách ghê tởm”. Người vạch ra chân tướng của danh từ đó là: mỗi viên công sứ người Pháp đứng đầu một tỉnh ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền mình trong một thời gian nhất định phải nộp đủ số người quy định bằng cách nào không cần biết. Hành động ấy cho thấy bọn thực dân không hề quan tâm đến những người lính của mình có hoàn cảnh ra sao, có nguyện vọng như thế nào. Bọn chúng nào coi những người lính ấy là con người mà chỉ như một thứ vật liệu, “vật liệu biết nói” mà bọn chúng đòi người dân phải nộp, lũ quan lại dưới quyền lại nhân cơ hội xoay sở kiếm tiền, tiếp tục bóp nặn những người dân đã cùng kiệt vì muôn thứ thuế khoá nặng nề của bọn chúng: “Thoạt tiên chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, những người này chỉ biết chết thôi chứ còn kêu cứu vào đâu được nữa. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: đi lính hoặc xì tiền ra”. Thủ đoạn của bọn chúng thật vô cùng bỉ ổi và trắng trợn, gây lũng đoạn đời sống nhân dân một cách tồi tệ nhất. Những người dân thuộc địa phải vào làm lính cho thực dân vì đã đến bước đường cùng không có cách nào thoát được mới phải chịu chứ chẳng có chút nào là tình nguyện ở đây cả. Nguyễn Ái Quốc còn nói rõ, những người bị bắt cứ có cơ hội là chạy trốn còn những người không thể chạy được thì tìm mọi cách làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng và ghê tởm nhất để khỏi phải đi lính. Thực tế ấy như một nhát búa đập tan cái danh từ hoa mĩ mà bọn thực dân đã giương lên một cách trơ trẽn và thô bỉ. Để tăng thêm tính thuyết phục cho những vấn đề mình đã nêu trên, tác giả tiếp tục đưa thêm những luận điểm bổ sung. Trong đó, Người nhắc lại những lời lẽ điêu trá, bịp bợm của chính phủ toàn quyền Đông Dương: “Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”. Liền tiếp sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra những dẫn chứng đối lập với những từ ngữ mà Người đã nhấn mạnh trong bản tuyên bố trịnh trọng mà giả dối của bọn thực dân là “tấp nập”, “không ngần ngại”: nếu quả thực người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và nhiều nơi khác nữa phải chăng là biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”? Biện pháp đối lập kết hợp với câu hỏi tu từ đặt ở cuối đoạn như xoáy sâu vào lương tri con người, tố cáo đanh thép luận điệu xảo trá và hành động tàn bạo, thủ đoạn độc ác trắng trợn của chính quyền thực dân đối với người dân các nước thuộc địa.
Phần cuối cùng của văn bản “Kết quả của sự hi sinh” tiếp tục làm lộ rõ bộ mặt xấu xa và tàn ác của bọn cá mập thực dân sau khi đã bóc lột hết thuế máu của nhân dân thuộc địa. Để nói về sự kiện chiến tranh kết thúc, Nguyễn Ái Quốc đã dùng một hình ảnh thật khủng khiếp: “Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi”. Hình ảnh ấy gợi cho ta cảm giác xương máu những người dân thuộc địa bị bọn thực dân coi rẻ đến cùng cực, bị bọn chúng mang ra làm mồi cho đại bác nhiều đến nỗi đại bác cũng phải phát ngấy. Nguyễn Ái Quốc quay lại giọng điệu mỉa mai giễu nhại khi nhắc đến thái độ của bọn quan thầy thực dân với những người lính đã từng làm bia đỡ đạn cho bọn chúng khi chiến tranh kết thúc: “những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền tự dưng im bặt như có phép lạ, và cả người “Ne-go-rô” lẫn người “An-nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”. Đến đây bộ mặt bịp bợm giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp không phải mới bắt đầu bộc lộ mà được thể hiện một cách trắng trợn và trơ tráo. Chúng thật xấu xa đê tiện, vong ân phụ nghĩa trong các hành động đối xử với những người lính còn sống sót: “để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ... trước khi đưa họ đến Mác - xây xuống tàu về nước đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn, đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: “Các anh đã bảo vệ tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” đó sao?”. Sự bội bạc và đê tiện của thực dân Pháp được Nguyễn Ái Quốc kể một cách tỉ mỉ, chi tiết dưới hình thức các câu hỏi tu từ như đang tranh biện cùng bọn chúng, khiến bọn chúng không thể bác bỏ, không thể chối cãi.
Đặc biệt hơn, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích cái cách mà thực dân Pháp đã trả ơn cho những người thương binh và vợ con của những tử sĩ là cấp cho họ môn bài bán lẻ thuốc phiện. Người chỉ rõ: “Như thế là trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại. Một mặt, họ vẫn chưa thoả khi tự tay làm cái việc bỉ ổi của người đầu độc mà còn muốn lôi kéo vào đây cả những nạn nhân đáng thương hại của cuộc huynh đệ tương tàn. Mặt khác, họ coi rẻ tính mạng và xương máu của những kẻ đã bị họ lừa bịp, đến nỗi tưởng rằng chỉ cần quẳng cho những này khúc xương thối ấy là đủ đền bù được cánh tay đã mất hay mạng của một người chồng”. Những lời phân tích ấy thật lạnh lùng, đanh thép với những từ ngữ vừa chính xác vừa giàu sức biểu cảm, chỉ đích danh tội ác của thực dân, luận tội bọn chúng trước công chúng và dư luận. Lời tổng kết cuối cùng như một lời đề nghị kết án, một niềm tin tưởng vào lương tri nhân loại và công lý quốc tế hãy lên tiếng chống lại bọn thực dân và bảo vệ những người dân thuộc địa đáng thương, vô tội đang bị đoạ đày cùng cực dưới sự cai trị tàn bạo của bọn chúng: “Chúng tôi chắc rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin chắc rằng thế giới văn minh và người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi”.
Đoạn trích với nghệ thuật châm biếm tài tình, sắc sảo, với cách xây dựng hình ảnh đầy ấn tượng, giọng điệu đanh thép nhưng đầy mỉa mai chua chát, Nguyễn Ái Quốc đã viết lên một bản cáo trạng hùng hồn để tố cáo một cách mạnh mẽ và quyết liệt bộ mặt giả nhân giả nghĩa, thủ đoạn tàn bạo và thô bỉ, lời lẽ bịp bợm và điêu trá của bọn cá mập thực dân Pháp khi đưa những người dân thuộc địa làm bia đỡ đạn trong cuộc chiến tranh phi nghĩa. Đồng thời bày tỏ niềm thương xót vô bờ với số phận bất hạnh của những con người đáng thương ấy. “Thuế máu” là chương thành công nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp.