BÀI LÀM
Giữa lúc phần lớn các thi sĩ Thơ mới đang thở than sướt mướt với tình yêu tuyệt vọng, với nỗi sầu cô đơn, Quê hương của Tế Hanh cất lên một tiếng nói khỏe khoắn khác lạ. Trong khi các thi sĩ đồng quê như Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ đưa người đọc tới những làng thôn xứ Bắc yên ả, tươi vui với Cổng làng, Chợ Tết, Đám hội, Bến đò ngày mưa, Trưa hè, Chiều xuân... Tế Hanh lại nhớ về một làng quê chài lưới ở miền Trung với cuộc sống lao động vất vả mà đầy chất thơ. Chính sự lạc giọng này chúng ta càng chú ý hơn đến Quê hương và nhiều bài thơ lúc ấy của Tế Hanh.
Nhiều người có ấn tượng rằng đã làm thơ lãng mạn thì phải nói tới tình yêu, tới đau khổ cô đơn, hoặc phải nhớ nhung mơ mộng, đắm đuối. Nếu tìm tòi theo hướng ấy tất sẽ thất vọng khi đến với tập Hoa niên của Tế Hanh. Không, Tế Hanh không phải là nhà thơ “lãng mạn ròng” như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... ít ra ở Quê hương, Lời con đường quê là những bài từng được Thi nhân Việt Nam tuyển chọn. Có lẽ nhà thơ đã viết Quê hương bằng cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, mến yêu con người lao động tràn đầy sinh lực bằng những kỉ niệm nồng nàn nhất của mình. Nếu không có tấm lòng ấy làm sao có được cảm xúc phấn chấn trong những dòng thơ này.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm. Các hình ảnh so sánh đậm màu sắc hùng tráng hiếm thấy trong Thơ mới lãng mạn (chất hùng tráng trong Nhớ rừng của Thế Lữ, trong một số bài thơ của Huy Thông thường gắn liền với chất bi và toát lên trong những hoài vọng xa xôi, cao cả). Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha, gắn bó nên mới liên tưởng: “Cánh buồm giương to như một mảnh hồn làng. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đây.
Cảm hứng phấn chấn của Tế Hanh được cất lên từ cuộc sống gian lao, mạnh mẽ của cái làng vạn chài từng ôm ấp ru vỗ tuổi thơ của mình. Nó bất chấp khoảng cách thời gian, không gian, gây cảm giác xa xôi. Như hiển hiện sinh động trước mắt ta là hình ảnh “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”, hình ảnh mái chèo phăng phăng, cánh buồn no gió và cảnh ồn ào đáng yêu khi chào đón thành quả lao động.
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Ở đoạn trước khi tả cảnh ra đi “mạnh mẽ vượt trường giang” của đoàn thuyền, hơi thở băng băng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm vui dân làng, theo những chiếc thuyền trở về nằm im trên bến. Chính ở đây xuất hiện mấy câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của Quê hương.
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Không là con của một vạn chài không thể viết được những câu thơ như thế. Hơn nữa, chỉ viết được những câu thơ như thế khi biết âm thầm đặt hồn mình vào đối tượng, vào cảnh vật để lắng nghe. Khi đặt hồn vào đó rồi, các khứu giác, xúc giác tinh nhạy của nhà thơ như phập phồng thu nhận những cảm giác. Chất muối mặn mòi thấm dần trong thớ vỏ của chiếc thuyền hay đã ngấm vào làn da, thớ thịt, vào tâm hồn Tế Hanh để thành niềm ám gợi bâng khuâng, kì diệu? Tế Hanh thật tài tình và thật tinh tế khi sống trong sự vật vô tri. Ở Lời con đường quê, nhà thơ nhập hồn vào con đường nhỏ chạy lang thang để đón lấy ánh nắng ban mai, để quyện lấy những mùi hương, để “san sẻ cùng người nỗi ấm no” và ngây ngất “với những tình quê buổi hẹn hò”. Ở Vu Cơ, xem tiễn biệt trên ga, ông cảm thương cùng nỗi vướng víu của những toa tàu.
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau.
Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường hơn vậy đây lại là nhớ quê hương:
Nay xa cách lòng luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Nếu không có mấy câu thơ kết thúc này, ta không biết Quê hương được viết trong xa cách, trong niềm tưởng nhớ khôn nguôi. Những hình ảnh tưởng nhớ trên kia đã thành kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi. “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá” - câu thơ cuối cùng cho ta rõ tâm hồn thiết tha của Tế Hanh.
Biểu hiện tình yêu và nỗi nhớ, niềm tự hào đối với cuộc sống lao động của quê hương, bài thơ thể hiện thuần thục thể thơ tám chữ với lối gieo vần chân. Vần chân được gieo liên tiếp và đổi thay theo từng cặp câu, đoạn sau lại được bắt liền với câu đoạn trước. Thể thơ cùng lối gieo vần này chúng ta cũng bắt gặp trong nhiều bài thơ lãng mạn nổi tiếng như Nhớ rừng của Thế Lữ, Tương tư chiều của Xuân Diệu... Nó rất thích hợp khi diễn tả dòng cảm xúc miên man, cuồn cuộn. Sau hai câu có ý nghĩa giới thiệu, cả bài thơ Quê hương được cuốn đi trong dòng cảm xúc vừa hùng tráng, vừa thiết tha sâu lắng. Điều thú vị là gần hai mươi năm sau, khi viết Nhớ con sông quê hương (1956), Tế Hanh lại vận dụng thành công lối gieo vần này. Nói đúng hơn, tâm hồn nhớ thương “lai láng chảy lòng tôi như suối tưới” đã tự nhiên “bắt” Tế Hanh đến với một hình thức nghệ thuật thích hợp.
Tưởng nhớ quê hương trong xa cách trở thành một dòng cảm xúc chảy dọc đời thơ Tế Hanh. Cái làng chài nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng “Nước bao vây cách biển nửa ngày sông” đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ ông, đã trở thành một điểm hướng về để ông viết nên những vần thơ thiết tha, đau đáu. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương đã thành công khởi đầu rực rỡ. Bài thơ mang âm hưởng khỏe khoắn, toát lên tình cảm đậm đà, trong sáng của chàng thi sĩ Tế Hanh ở độ hoa niên giữa lúc bầu trời xung quanh lắm chỗ ảm đạm.