BÀI LÀM
Nhật kí trong tù là viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam, là tập thơ chữ Hán gồm 133 bài, phần lớn là thơ tứ tuyệt được ra đời trong thời kì Bác bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây, Trung Quốc. Xiềng xích của nhà tù không thể giam cầm được tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh. Bác viết Nhật kí trong tù chỉ nhằm mục đích giải khuây, giết thời gian nhưng tập thơ đã trở thành một bức chân dung tinh thần tự họa của Bác, một người tù vĩ đại có tâm hồn cao đẹp, ý chí nghị lực phi thường và tài năng nghệ thuật xuất sắc. Bác đã viết bài thơ Ngắm trăng vào mùa thu năm 1942, đó là bài thơ số 21 trong tập Nhật kí trong tù.
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Câu thơ đầu của bài thơ nói lên hoàn cảnh và nỗi niềm của người tù. Thực ra không phải đến Hồ Chí Minh mới xuất hiện hình ảnh vầng trăng mà trăng đã đi vào trong thơ xưa từ lâu. Từ trong câu ca dao ngọt ngào đằm thắm: Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi? hay vầng trăng chia li trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Vầng trăng ai xẻ làm đôi, nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường. Thi nhân xưa gặp cảnh đẹp, thường đem rượu uống trước hoa để thưởng trăng. Đó là cái thú thanh cao tao nhã của những tâm hồn cao đẹp. Thế nhưng người xưa cũng ngắm trăng trong một trạng thái tâm hồn thư thái, thảnh thơi giữa trời đất bao la và với đầy đủ những thú vui khác: Khi chén rượu, khi cuộc cờ. Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên. Còn ở đây, Bác ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt, đó là trong ngục tù. Và càng đặc biệt hơn người ngắm trăng ở đây lại là một tù nhân bị đày đọa vô cùng cực khổ; hai tay bị xiềng, hai chân bị xích, răng rụng, tóc bạc, ghẻ lở mọc đầy thân và tiều tụy như quỷ đói. Ngoại trừ ánh trăng, trong tù thiếu tất cả những điều kiện cần cho một cuộc thưởng trăng: không rượu, không hoa, không tự do, không bạn hiền. Ấy thế mà người tù ấy không thể làm ngơ trước cảnh đẹp đêm nay được.
Câu thơ thứ hai đã cho chúng ta thấy tâm hồn Bác. Đó là sự nhạy cảm, là cái xốn xang, bối rối trước vẻ đẹp thiên nhiên: trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào? Câu thơ dịch đã làm mất đi cái xốn xang bối rối. “Nại nhược hà” là lời tự hỏi, nghĩa là biết làm thế nào. Còn “khó hững hờ” lại là một lời khẳng định, thể hiện sự đón nhận vẻ đẹp của trăng bình thản hơn. Câu dịch vì thế không diễn tả sát trạng thái tâm hồn đầy chất thơ của người tù nghệ sĩ trước vẻ đẹp của trăng.
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Tâm hồn của người thi sĩ - chiến sĩ Hồ Chí Minh là thế, không có hoa, không có rượu chỉ có ánh trăng thôi vậy mà làm cho người tù khó hững hờ, khó bỏ qua giây phút được ngắm ánh trăng. Từ lâu trăng là người bạn tri âm tri kỉ của Bác, trăng thức cùng Bác trong chặng đường chuyển từ nhà lao này tới nhà lao khác, và trong Nhật kí trong tù đã có nhiều lần hình ảnh vầng trăng xuất hiện. Có người cho rằng trăng là biểu tượng của khát vọng tự do, không hẳn thế vì sau này khi được tự do ở chiến khu Việt Bắc, hình ảnh vầng trăng vẫn xuất hiện trong thơ của Bác: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa hay Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. Trăng là biểu tượng của cái đẹp và một con người có một tâm hồn nhạy cảm như Bác không thể bỏ quên hình ảnh vầng trăng được. Hai câu thơ đầu giản dị đã thể hiện cụ thể và xúc động hoàn cảnh ngắm trăng và tâm trạng cảm xúc của người yêu trăng chốn lao tù.
Hai câu thơ sau là cuộc vượt ngục tinh thần đặc biệt.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Xiềng xích và gông cùm không khóa được hồn người. Không được tự do, người tự chủ động hướng ra cửa ngục để ngắm trăng sáng. Đó là cái chủ động của người cách mạng luôn đứng cao hơn hoàn cảnh, vượt lên trên mọi hoàn cảnh để sống và cống hiến. Câu thơ dịch đã bỏ mất động từ “hướng” làm cho việc ngắm trăng của người tù có vẻ bình thản, tĩnh tại hơn. Như vậy ngắm trăng không đơn thuần chỉ là chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh trăng mà là cuộc vượt ngục tinh thần bằng thơ của một người tù nghệ sĩ chuộng cái đẹp. Thân tại ngục tù, nhưng lòng Bác đã “vời vợi mảnh thu”. Điều kì diệu nữa là trăng cũng vượt qua song sắt nhà tù để ngắm nhà thơ. Ở đây, vầng trăng không còn là thực thể vô tri vô giác, vô tình nữa mà đã được nhân hóa thành một con người, hơn thế trăng trở thành một người bạn tri âm tri kỉ của Bác. Cả trăng và người tù đều chủ động tìm đến giao hòa cùng nhau như một đôi bạn thân thiết tự bao đời.
Trong nguyên âm chữ Hán, hai câu thơ 3, 4 có kết cấu đăng đối nhịp nhàng:
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
Cả hai câu thơ đều có từ “song” chỉ song sắt nằm giữa câu như chính bức song sắt của nhà tù muốn ngăn sự gặp gỡ giữa “thi nhân” và “minh nguyệt”. Sự đối từ đối nhịp và kết cấu đăng đối đã làm nổi bật sự giao hòa sóng đôi khăng khít giữa trăng và người nghệ sĩ. Rất tiếc, hai câu thơ dịch đã làm mất cấu trúc đăng đối và vì vậy làm giảm đi phần nào sức truyền cảm.
Hai câu thơ cho ta thấy sức mạnh tinh thần kì diệu của người tù cách mạng - người nghệ sĩ vĩ đại. Quên đi tất cả những đau đớn, đói rét, muỗi rệp, ghẻ lở... của chế độ nhà tù khủng khiếp, Người luôn để tâm hồn mình sống giữa thiên nhiên, hướng tới ánh sáng đẹp đẽ của thiên nhiên. Trong chốn lao lung, Bác đã làm nên những vần thơ tuyệt đẹp. Đằng sau những câu thơ đẹp, mềm mại như vậy chỉ có thể là một tinh thần thép, chất thép của phong thái ung dung, tự tại.