BÀI THAM KHẢO

Bạn đọc ít biết đến các bài thơ khác của Vũ Đình Liên. Nói đến Vũ Đình Liên người ta chỉ nghĩ đến Ông đồ. Đó là một thành công đột xuất của nhà thơ này và là một trong số những bài đại diện cho giai đoạn thơ ca 1930 - 1945. Ông đồ chỉ có 20 câu, mà đã in đủ bóng dáng một thời tàn và nỗi lòng ân hận của lớp người đương đại.

Vào cái thời văn minh phương Tây xâm nhập mạnh vào nước ta, bút sắt thay bút lông. Các khoa thi chữ Hán đã bị huỷ bỏ, cảnh lều chõng đã vắng bóng từ hơn ba chục năm, thì các bậc khoa bảng cũng chỉ còn cái bút danh, không quyền bính gì. Bước vào thập kỉ bốn mươi, xã hội Việt Nam đã trải qua một phen Âu hoá, nảy nòi ra những ông Văn Minh, ông Tuýp Phờ Nờ, Xuân Tóc Đỏ, thì bóng dáng một ông đồ có còn ai quan tâm đến nữa. Ông chỉ xuất hiện trên vỉa hè Hà Nội vào những ngày giáp Tết bán chữ trên giấy điều cho những ai còn yêu lối chữ tượng hình. “Ông chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”.

Thương hại một thời tàn, nhớ lại một thời xưa là một cảm hứng lớn của nhiều nhà thờ hồi ấy, như chúng ta đã thấy ở Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, Phạm Huy Thông, Đoàn Văn Cừ,... Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam cũng đã nhận xét “chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để in vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai”. Chúng ta hiểu đây cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước, dù nó có phần tội nghiệp. Bài Ông đồ tràn ngập một nỗi niềm thương tiếc, thoáng chút ân hận tự trách mình đã có lúc vô tâm, vô tình để mất đi những hình ảnh đẹp của cha ông. Tôi nói thoáng chút ân hận vì tác giả cũng nhận thức được quy luật tiến hóa của đời sống, lòng người không cưỡng được, ta chỉ ân hận với lòng ta là đã không đủ thương, không đủ quý đó thôi. Bài thơ như nén tâm hương thắp lên để tưởng niệm những bóng hình đã mất. Giọng thơ giản dị, mộc mạc, cách biểu hiện chân thực, chi tiết là việc thực ngoài đời không hư cấu, không liên tưởng gì đột xuất, vậy mà xúc động. Đọc xong dòng thơ cuối cùng, bao nhiêu người đã lặng đi nghĩ ngợi. Năm tháng đã lùi xa, những nỗi lòng Việt Nam ta trận trọng với bài thơ, coi nó như một kỉ vật tâm hồn.

Hai đoạn đầu bài thơ, tác giả giới thiệu những ngày huy hoàng của ông đồ:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Những lời khen thật hào phóng, nhưng nghĩ kĩ đó chỉ là lời khen của những người ngoài giới bút nghiên. Đi viết câu đối thuê, bản thân việc ấy đã là nỗi lận đận, là bước thế của người theo nghiệp khoa bảng. Đỗ cao thành quan Nghè, quan Thám, đỗ thấp thì cũng ông Cử, ông Tú, chứ ông đồ là chưa đỗ đạt gì, công chưa thành danh chưa toại, đành về quê dạy học, bốc thuốc, hay xem lí số ở nơi đô hội như có lần Tản Đà đã làm. Ngày Tết, mài mực bán chữ ngoài vỉa hè chắc cũng là việc bất đắc dĩ của nho gia. Chữ thì cho chứ ai lại bán. Bán chữ là cái cực của kẻ sĩ ở mọi thời. Bà con cũng thán phục cái thứ chữ mà bà con không biết, hay chỉ võ vẽ, nên mới khen đến vậy. Lời khen này không mang lại vinh quang cho ông đồ, có thể ông còn tủi nữa, nhưng nó an ủi ông nhiều, nó là cái tình của người đời vào hồi vận mạt của ông. Tác giả giới thiệu: cùng với hoa đào mỗi năm mới có một lần chứ nhiều nhặn gì đâu, giấy đỏ mực Tàu, chữ nghĩa thánh hiền bày trên hè phố. Đừng nghĩ đến chuyện khoa bảng, hãy nghĩ trên cương vị người bán thì đây là hai đoạn thơ vui vì nó nói được sự đắt hàng, ông đồ còn sống được, có thể tồn tại trong cái xã hội đang biến động này. Nhưng cuộc đời đã không như thế mãi, cái ý thích của người ta cũng thay đổi theo cuộc đời. Lớp người mới lớn không có liên hệ gì để mà quyến luyến cái thứ chữ tượng hình kia. Cái tài viết chân, thảo, triện, lệ của ông đồ chữ tốt kia họ không cần biết đến.

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.

Ông đồ vẫn ngồi đây

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Ông đồ rơi vào tình cảnh của một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc. Còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên đi sớm về trưa một mình. Ông đồ vẫn ngồi đấy mà không ai hay. Cái hiện thực ngoài đời là thế và chỉ có thế, nó là sự ế hàng. Cùng với cái hiện thực ấy còn là nỗi lòng tác giả nên giấy đỏ như nhạt đi và nghiên mực hóa sầu tủi. Hay nhất là cộng hưởng vào nỗi sầu thảm này là cảnh mưa phùn gió bấc. Hiện thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng, nỗi lòng đang vui như những năm ông đồ “đắt khách” nào có thấy gió mưa. Gió thổi lá bay, lá vàng cuối mùa rơi trên mặt giấy, nó rơi vào nằm tại đấy vì mặt giấy chưa được dùng đến, chẳng có nhu cầu gì phải nhặt cái lá ấy đi. Cái lá bất động trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng bó gối của ông đồ ngồi nhìn mưa bụi bay. Văn tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt của ông. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay. Thể thơ năm chữ vốn có sức biểu hiện những chuyện dâu bể, hoài niệm, đã tỏ ra rất đắc địa, nhịp điệu khơi gợi một nỗi buồn nhẹ và thấm. Màn mưa bụi khép lại đoạn thơ thật ảm đạm, lạnh, buồn, vắng. Như vậy cũng chỉ với tám câu, bốn mươi chữ, đủ nói hết những bước cuối của một thời tàn. Sự đối chiếu chi tiết ở đoạn này với đoạn trên: mực với mực, giấy với giấy, người với người, càng cho ta cái ấn tượng thảng thốt, xót xa của sự biến thiên. Có một khoảng thời gian trôi qua, khoảng trống của đoạn thơ trước khi vào bốn câu kết.

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Hãy trở lại câu thơ đầu bài “Mỗi năm hoa đào nở” để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa. Ông đồ đã kiên nhẫn ngồi đấy, nhưng năm nay ông không còn kiên nhẫn được nữa. “Không thấy ông đồ xưa”. Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại. Chúng ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã nhìn thấy ông chới với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị buông rơi bao giờ. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người, của một nghề, mà là dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi. Chúng ta hỏi nhau hay tự hỏi mình, hỏi hay khấn khứa tưởng niệm, hay ân hận sám hối. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc. Về ngữ pháp, câu thơ này rất lạ nhưng không ai thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”. Muôn năm, thật ra chỉ là ba năm, nhưng nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào với những ngòi bút, những nghiên bút rất xa trong lịch sử. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ của câu dưới là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi.