1. Diễn biến tâm trạng của nhân vật người con trai qua hai phần của văn bản.
Phần 1: Tâm trạng của Anh (và của Chị - qua sự mô tả của Anh) trên đường tiễn dặn
a) Cách Anh gọi Chị là “người đẹp anh yêu” khẳng định tình yêu trong Anh vẫn còn thắm thiết. Nhưng tình cảm chủ quan đó lại mâu thuẫn với sự thực khách quan là Chị đang “cất bước theo chồng” (thậm chí đã có con với chồng).
b) Anh có những cử chỉ, hành động dường như muốn níu kéo cho dài ra giây phút còn được ở bên Chị trên đường tiễn dặn: phải được nhủ, được dặn Chị đôi câu Anh mới có thể “đành lòng” quay về, muốn ngồi lại bên Chị, âu yếm Chị để “ủ lấy hương người” cho mai sau (khi chết) lửa xác (mình) vẫn đượm hơi người thân yêu ngày hôm nay, nựng con của Chị với chồng mà như nựng chính con đẻ của mình.
c) Anh cảm nhận rằng dường như Chị cũng muốn níu kéo cho dài ra những giây phút cuối cùng còn được ở bên Anh: chân bước đi mà đầu còn “ngoảnh lại”, mắt còn “ngoái trông” Anh; chân bước càng xa thì lòng Chị càng đau nhớ; bởi vậy cứ mỗi cánh rừng đi qua Chị đều coi là cái cớ để dừng lại chờ Anh, lòng đầy khắc khoải.
Vậy là hai người đang cùng trong một cảnh ngộ “tiễn dặn” và cũng đang sống trong cùng một tâm trạng day dứt, dùng dằng đầy dằn vặt, đau đớn. Chính vì những “điểm chung” đó mà Anh đã rất tự nhiên, như không thể khác được, kết thúc phần này bằng cách gọi “đôi ta” với ý chí quyết sẽ đoàn tụ với nhau (ý là ý của riêng Anh nghĩ, nhưng quyết tâm thì đã là quyết tâm của cả hai người).
d) Hai câu thơ số 23, 24 vừa kết thúc phần thứ nhất vừa báo hiệu trước sự đoàn tụ về sau của họ ngay vào lúc tưởng như bước sang “mùa đông” của cuộc đời. Đây là hai câu thơ vừa thực hiện chức năng trữ tình (tả nội tâm) vừa thực hiện chức năng tự sự (chuẩn bị cho mọi diễn biến và kết cục về sau).
Phần 2: Cử chỉ, hành động và tâm trạng của Anh lúc ở nhà chồng của Chị:
a) Văn bản lược đi một đoạn Chị bị nhà chồng đánh đập đến ngã lăn ra bên miệng cối gạo, bên “máng lợn vầy”, để rồi bắt đầu ngay bằng hai việc làm của Anh: chạy lại đỡ Chị dậy, ân cần phủi áo, chải lại đầu cho Chị, sau đó đi chặt tre về làm ống làm thuốc cho Chị “uống khỏi đau”.
Trong đoạn mở đầu phần thứ hai này ta thấy Anh đã có những cử chỉ, hành động biểu lộ niềm xót xa, thương cảm sâu sắc đối với người yêu – điều mà Chị đang rất cần vào lúc này như cần một chỗ dựa về tinh thần. Mô tả cảnh người con gái ngay khi vừa mới về nhà chồng đã bị đánh đập, hành hạ thảm thương là một đề tài phổ biến của ca dao các dân tộc thiểu số nước ta, nó khái quát một sự thực đau lòng trong số phận người phụ nữ ở xã hội miền núi lạc hậu ngày xưa.
b) Tiếp đó là tâm trạng của Anh vừa xót xa cho Chị vừa quyết tâm sẽ bằng mọi cách đón Chị về đoàn tụ với mình. Phần thứ hai chỉ có 30 câu thơ, nhưng đoạn bộc lộ tâm trạng và lòng quyết tâm này dài tới 22 câu. Tỉ lệ độ dài như vậy cũng phần nào cho thấy rằng tính trữ tình là tính chất chủ yếu của riêng trích đoạn này, đồng thời cũng là của toàn bộ tác phẩm.
c) Mặt khác, cũng một ý nói lên lòng quyết tâm đoàn tụ mà phần này dành một số lượng câu lớn như thế, trong cách diễn tả lại sử dụng dồn dập nhiều hình ảnh ẩn dụ, so sánh tương đồng, sử dụng lớp lớp những câu thơ đặt theo một số mô hình cấu trúc chung, có những từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần (để khẳng định ý chí đoàn tụ không gì lay chuyển được) là một đặc điểm nghệ thuật không chỉ nổi bật ở đoạn trích này. Đó còn là một lối nói quen thuộc trong ca dao của nhiều dân tộc thiểu số miền Bắc nước ta. Dân gian những vùng, miền dân tộc đó cảm thấy dường như phải nhắc đi nhắc lại nhiều một ý như vậy may ra mới thỏa mãn phần nào những cảm xúc đang dâng đầy trong lòng những con người sống chất phác, mãnh liệt giữa thiên nhiên núi rừng cường tráng.