1. Hai cầu đề
Chú ý làm nổi bật vẻ đẹp kì vĩ của con người ở câu thơ thứ nhất, khí thế hào hùng của thời đại ở câu thứ hai.
- Câu thơ thứ nhất thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kì vĩ:
Múa giáo non sông trải mấy thu
+ Hai chữ “múa giáo” trong lời dịch chưa thể hiện được hai từ hoành sóc của câu thơ chữ Hán: Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu. Câu thơ nguyên tác dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) mà trấn giữ đất nước. Cây trường giáo ấy như phải đo bằng chiều ngang của non sông. Con người xuất hiện với một tư thế hiên ngang mang tầm vóc vũ trụ. Con người kì vĩ như át cả không gian bao la.
+ Làm nổi bật hình ảnh con người kì vĩ là một bối cảnh không gian, thời gian kì vĩ. Không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông. Thời gian đâu phải là chốc lát mà là mấy năm rồi (cáp kỉ thu).
- Ở câu thơ thứ hai, “ba quân” là hình tượng quân đội nhà Trần nhưng cũng là sức mạnh của toàn dân tộc
+ Thư pháp so sánh vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất của ba quân, vừa hướng tới sự khái quát hóa sức mạnh tinh thần của đội quân mang “hào khí Đông Á”.
+ Câu thơ gây ấn tượng hoành tráng, mạnh mẽ bởi kết hợp hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan, giữa cảm hứng hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
2. Hai câu thơ cuối, chú ý làm nổi bật cái chí, cái tâm của người anh hùng.
- Chí ở đây là chí làm trai mang tinh thần, tư tưởng tích cực của Nho giáo:
+ Lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm). Quan niệm lập công danh đã trở thành quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
+ Công danh được coi là món nợ đời phải trả của kẻ làm trai. Trả xong nợ công danh có nghĩa đã hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân, với nước. Chí làm trai ở thời bấy giờ có tác dụng cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng hi sinh chiến đấu cho sự nghiệp lớn lao – sự nghiệp cứu nước, cứu dân để cùng trời đất “muôn đời bất hủ”. Đặt trong hoàn cảnh lịch sử, xã hội lúc đó, chí làm trai có nội dung tích cực và có tác dụng to lớn.
- Vẻ đẹp cái tâm của người anh hùng thể hiện qua nỗi “thẹn”. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài Thu vịnh từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm - một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Trong bài Thuật Hoài, nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là chưa khôi phục được giang sơn, đất nước. Nỗi thẹn như vậy không làm con người thấp bé đi, mà trái lại nâng cao nhân cách con người.