1. Vẻ đẹp cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm (trong câu 1 và 2, câu 5 và 6)

- Cuộc sống thuần hậu thể hiện ngay trong hai câu thơ đầu:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

+ Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như một “lão nông tri điền”, với những công cụ lao động: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để câu cá.

+ Cách dùng số từ đếm rành rọt: “Một..., một..., một...” cho thấy tất cả đã sẵn sàng, chu đáo.

+ Câu thơ như đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền” (đào giếng lấy nước sông, cày ruộng lấy cơm ăn). Cụ Trạng mà lại về với đời sống “tự cung tự cấp” thì cũng là một sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang, mà cứ thuần hậu, nguyên thủy: Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Chữ “ai” vốn để nói với người, ở đây đọc lên nghe thật thú vị.

- Cuộc sống bậc đại ẩn am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

+ Sự đạm bạc là ở những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá đỗ. Các món ăn đạm bạc cây nhà lá vườn này là mình tự lo, là công sức của chính mình. Sinh hoạt thích tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác.

+ Đạm đi với thanh. Cuộc sống thanh cao trong sự trở về với tự nhiên, mùa nào thức ấy. Hai câu thơ mà có một bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có mùi vị, có hương sắc, không nặng nề, không ảm đạm. Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao - thì vừa có nước trong, vừa có hương thơm thanh quý.

2. Vẻ đẹp nhân cách (trong câu 3 và 4)

- Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

+ “Vắng vẻ” đối lập với “lao xao”, “ta” đối lập với “người”. Ta tìm nơi vắng vẻ là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn.

+ Người đến chốn lao xao là đến chốn cửa quyền, là đường hoạn lộ. Chốn lao xao, sang trọng thì có ngựa xe tấp nập, kẻ hầu người hạ, thủ đoạn thì có bon chen, luồn lọt, sát phạt.

- Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, Bạch Vân Cư Sĩ vui, niềm vui thốt lên thành lời: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Niềm vui như hiện lên trong bước đi ung dung, “thơ thẩn”. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ thanh thản, thoải mái một cách kì lạ.

3. Vẻ đẹp trí tuệ Nguyễn Bỉnh Khiêm

– Trạng Trình là một bậc thức giả với trí tuệ vô cùng tỉnh táo. Tỉnh táo trong sự chọn lựa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Tỉnh táo trong cách nói đùa vui, ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hóa dại. Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Khôn mà hiểm độc là khôn dại

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn

(Thơ Nôm - Bài 94)

Như vậy thì dại, khôn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm có phần xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

- Trạng Trình là bậc triết gia với trí tuệ uyên thâm. Bậc đại nho, đại trí này nắm vững lẽ biến dịch, hiểu thấu quy luật họa / phúc, bĩ/ thái, cùng / thông, táng / đắc. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, cái “khôn” của người thanh cao là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn. Sống ung dung hòa nhập với tự nhiên.

- Vì vậy mà có nhãn quan tỏ tường. Với cái nhìn thông tuệ thì tìm đến “say” chỉ là để “tỉnh”:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ. Trí tuệ nhận ra công danh, của cải, quyền quý là giấc chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách để nhà thơ từ bỏ chốn lao xao quyền quý đến nơi vắng vẻ đạm bạc mà thanh cao.

- Vẻ đẹp bức chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn: là chân dung cuộc sống, chân dung nhân cách.

4. Tổng kết (Gợi ý trả lời câu hỏi 5)

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là sống nhàn nhã, trốn tránh vất vả, cực nhọc về thể chất. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhàn không phải là quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân. Nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh lợi mà tác giả, gọi là “chốn lao xao”. Nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá - Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao, về với tự nhiên để di dưỡng tinh thần. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, nhàn mà vẫn canh cánh nỗi niềm ái ưu (ái quốc ưu dân - yêu nước lo dân). Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến có những biểu hiện suy vị về đạo đức thì quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang những yếu tố tích cực.