I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Bài ca dao này được phổ biến rộng rãi trên khắp đất nước ta.
- Bài ca dao kết tinh giá trị nghệ thuật tuyệt vời và ý nghĩa nhân sinh to lớn. Có thể coi đây là tuyên ngôn về quan điểm sống trong sạch, thanh cao của dân tộc Việt Nam.
2. Thân bài:
a/ Hai câu đầu:
- Câu thứ nhất: Trong đầm gì đẹp bằng sen là câu hỏi tu từ, khẳng định hoa sen đẹp nhất, không loài hoa nào so sánh được. Cách nêu vấn đề rất cuốn hút, buộc người nghe suy ngẫm, đồng tình...
- Câu thứ hai: Tả cụ thể vẻ đẹp của cây sen: Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng, để chứng minh cho lời khẳng định ở câu trên. Cây sen có sự hài hoà về màu sắc (lá xanh, bông trắng, nhị vàng), màu nào cũng đẹp, cũng tươi.
b/ Hai câu cuối:
- Câu thứ ba: Nhắc lại vẻ đẹp của cây sen: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh, cách đảo ngược như vậy có tác dụng nhấn mạnh, tạo sự chú ý của người nghe. Một lần nữa khẳng định hoa sen xứng đáng đứng đầu các loài hoa trong đầm.
- Câu thứ tư : Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn là linh hồn của bài ca dao. Nghĩa tường minh: Môi trường sống của sen là đầm lầy. Nghĩa hàm ẩn: Sen vươn lên từ đầm lầy nhưng vẫn đẹp, vẫn ngát hương. Ẩn dụ nghệ thuật gợi liên tưởng đến quan niệm sống trong sạch của người lao động.
3. Kết bài:
- Hình tượng hoa sen với ý nghĩa tượng trưng đã trở thành hình tượng chính trong bài ca dao.
- Người nông dân Việt Nam yêu quý hoa sen, đã đưa hoa sen vào ca dao, mượn hoa sen để gửi gắm tâm sự, thể hiện phẩm giá trong sạch của mình.
- Với bài ca dao này, hoa sen mãi mãi lưu lại vẻ đẹp và hương thơm quý giá trong văn chương và trong lòng người.
II. BÀI LÀM
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Không hiểu bài ca dao xuất hiện từ bao giờ nhưng có nhiều ý kiến cho rằng đây là bài ca dao mà nghệ thuật tuyệt vời và ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc gắn liền với nhau, tạo nên giá trị muôn đời.
Hình ảnh cây sen được miêu tả vừa cụ thể, chân thật vừa mang tính tượng trưng và khái quát rất cao. Ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen, tác giả dân gian nhằm phản ánh niềm tự hào của con người Việt Nam là luôn giữ được tâm hồn trong sáng, phẩm chất thanh cao, dù hoàn cảnh sống có nghiệt ngã đến mức nào.
Ở câu mở đầu:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Tác giả đã khẳng định hoa sen đẹp nhất so với tất cả các loài hoa nở trong đầm bằng một câu hỏi tu từ khéo léo, lôi cuốn người nghe, đặt họ vào vị trí và tâm thế thưởng thức cùng với mình. Để rồi sau khi so sánh, cân nhắc, họ sẽ rút ra kết luận không thể khác.
Câu thứ hai:
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Để chứng minh cho lời khẳng định ở trên là có cơ sở, tác giả tuần tự miêu tả vẻ đẹp của cây sen, từ lá xanh qua bông trắng đến nhị vàng. Trên nền xanh của lá, nổi bật màu trắng tinh khiết của hoa; giữa màu trắng của hoa lại chen chút sắc vàng của nhị. Từ lại được dùng rất tài tình, có tác dụng nhấn mạnh sự đa dạng màu sắc của hoa sen. Từ chen nói lên sự kết hợp hài hoà giữa hoa và nhị. Tất cả như cùng đua đẹp, đua tươi. Cảnh đầm sen giống như một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện lên dưới ngòi bút chấm phá thần tình.
Câu thứ ba:
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Câu này có vị trí đặc biệt trong toàn bài vì nó là câu chuyển (chuyển vần, chuyển nhịp, chuyển ý) để chuẩn bị cho câu kết.
Từ câu thứ hai sang câu thứ ba có sự đột ngột, khác thường trong cách gieo vần (ang, anh) nhưng nhiều người không để ý. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển vần và sự thay đổi trật tự các từ ngữ và hình ảnh đã được thực hiện một cách khéo léo, tự nhiên, hợp lí về cả nội dung và hình thức.
Hai chữ nhị vàng ở cuối câu thứ hai được lặp lại ở đầu câu thứ ba tạo nên tính liên tục trong tư duy, cảm xúc và sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung với hình thức trong toàn bài.
Câu đầu và câu cuối là nhận định, đánh giá về vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của cây sen. Hai câu giữa tả thực đến từng chi tiết: lá xanh, bông trắng, nhị vàng (tả đi); rồi tả lại: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Tả từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Dường như người tả đang cố chứng minh bằng được vẻ đẹp của sen: đẹp từ sắc lá đến màu hoa, màu nhị. Sau đó lại nhấn mạnh thêm bằng cách đảo ngược: đẹp từ màu nhị đến màu hoa, sắc lá. Nghệ thuật miêu tả ở đây mới đọc qua tưởng chừng đơn giản, song thực sự đã đạt tới trình độ điêu luyện, tinh vi. Nghệ thuật ấy đã tôn vinh hoa sen lên hàng hoa quý, xứng đáng tượng trưng cho vẻ đẹp của con người chân chính.
Đọc mấy câu ca dao trên, chúng ta liên tưởng tới hình dáng thanh tao, kiêu hãnh của hoa sen và trong tâm tưởng cũng bừng nở một đoá sen tuyệt đẹp!
Câu thứ tư:
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Dù mang tính chất ẩn dụ tượng trưng nhưng trước hết vẫn là tả thực về môi trường sống của cây sen. Sen thường sống ở trong ao, trong đầm lầy, nơi có nhiều bùn. Ấy vậy mà hoa sen lại rất thơm, một mùi thơm thanh khiết lạ lùng! Có thể coi đây là cái nút của toàn bài ca dao. Thiếu câu ca dao này, hình tượng của hoa sen vẫn tồn tại nhưng không có linh hồn và ý nghĩa.
Nếu câu ca dao mở đầu là luận đề mang ý nghĩa khái quát về hình tượng của hoa sen thì đến câu kết của bài thơ, hình tượng bông sen trong tự nhiên đã chuyển sang hình tượng bông sen trong cuộc đời một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng, không có một sự gượng ép nào, do đó mà nghĩa bóng của hoa sen cũng mở rộng không giới hạn.
Chính vì vậy mà tính chất tượng trưng, ẩn dụ của hình tượng thơ nổi lên, lấn át hình ảnh thực. Nó tựa hồ như một cánh cửa kì diệu, khép nghĩa đen lại và mở nghĩa bóng ra một cách thần tình.
Và thế là trong phút chốc, sen hoá thành người, bùn trong đầm (nghĩa đen) biến thành bùn trong cuộc đời (nghĩa bóng). Rồi cả hình ảnh cái đầm cùng mùi hôi tanh của bùn cũng được coi là ẩn dụ tượng trưng vì nó được hiểu theo nghĩa bóng với những mức độ rộng hẹp, xa gần khác nhau, tuỳ theo trình độ mỗi người.
Có một cái gì đó rất gần gũi, đồng điệu giữa phẩm chất của hoa sen và phẩm chất của người lao động. Mùi bùn gợi liên tưởng đến những cái xấu xa, thấp hèn của mặt trái xã hội phong kiến thời suy tàn cùng với lũ tham quan ô lại vô liêm sỉ.
Nhân dân lao động, đặc biệt là nông dân gần gũi với hoa sen, hiểu và yêu quý sen hơn cả. Họ đã nhiều lần trân trọng đưa hoa sen vào ca dao. Họ mượn cái thanh khiết lạ kì của hoa sen để bày tỏ, gửi gắm tâm sự của mình. Với bài ca dao này, hoa sen đã lưu lại mãi mãi vẻ đẹp và hương thơm cao quý vào văn chương và vào lòng người dân đất Việt.