I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Thôi Hiệu (704 - 754) quê ở Biện Châu, phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông đỗ tiến sĩ năm 723, sau đó làm quan đến chức Tư huân viên ngoại lang.

- Ông sáng tác rất nhiều thơ với những đề tài khác nhau, nổi tiếng nhất là bài Hoàng Hạc lâu (Lầu Hoàng Hạc) được truyền tụng rộng rãi qua hàng ngàn năm. Tâm trạng u hoài trước thời thế của tác giả được thể hiện bằng một bài thơ Đường luật với nghệ thuật tài tình hiếm có.

2. Thân bài:

* Hai câu đề:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

(Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu)

- Nhắc lại huyền thoại về nguồn gốc của lầu Hoàng Hạc từ xa xưa, thời tiên còn ở lẫn với người.

- Trải qua bao tang thương dâu bể, giờ đây lầu Hoàng Hạc đứng chơ vơ, cô quạnh bên bãi vắng sông trôi khiến thi nhân chạnh lòng nhớ cổ thương kim.

* Hai câu thực:

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

(Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.)

- Hình ảnh hạc vàng gắn liền với khung cảnh thần tiên. Hạc vàng bay mất không bao giờ quay trở lại mang theo tất cả những gì là huyền ảo nhất, thơ mộng nhất của lầu Hoàng Hạc.

- Chỉ còn mây trắng vẫn bay giống như ngàn năm trước. Khung cảnh được miêu tả bằng cảm xúc ngậm ngùi, nuối tiếc của nhà thơ. Nhà thơ chìm đắm trong tâm trạng hoài cổ, giữa không gian tịch mịch cô liêu.

* Hai câu luận:

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

(Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.)

- Thiên nhiên đẹp như một bức tranh sơn thuỷ với đường nét, màu sắc hài hoà: nắng chiếu trên hàng cây trên bến Hán Dương; màu xanh mướt của thảm cỏ non trên bãi xa Anh Vũ.

- Nghệ thuật miêu tả tinh tế, điêu luyện, chỉ vài nét phác hoạ mà thể hiện được thần thái của cảnh vật (thi trung hữu hoạ).

* Hai câu kết:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.)

- Nhịp thơ ngắn 2 - 2 - 1 - 2 trong nguyên tác chữ Hán và nhịp 2 - 2 - 2 trong câu thơ dịch của Tản Đà tạo nên âm hưởng trầm buồn, đặc tả tâm trạng thương nhớ quê hương da diết của Thôi Hiệu.

- Hình ảnh Trên sông khói sóng là tác nhân gợi nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi trong lòng nhà thơ. Khung cảnh chập chờn, mông lung của cảnh vật rất phù hợp với tâm trạng ấy (xúc cảnh sinh tình).

- Cái hay của hai câu kết tụ lại ở từ sầu là nhãn tự, thần tự của bài thơ.

3. Kết bài:

- Viết về lầu Hoàng Hạc có tới hàng ngàn bài thơ khác nhau của hàng ngàn thi sĩ từ xưa tới nay nhưng bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu vẫn xuất sắc nhất.

- Giai thoại kể về “Thi tiên” Lí Bạch đến thăm lầu Hoàng Hạc, cảm hứng nổi lên định làm thơ ngâm vịnh nhưng khi nhìn thấy bài thơ của Thôi Hiệu đề trên vách lầu thì gác bút không dám viết nữa là cách khẳng định giá trị bất hủ của Hoàng Hạc lâu và vị trí đỉnh cao của tên tuổi Thôi Hiệu.

II. BÀI LÀM

Thôi Hiệu (704 - 754), quê ở Biện Châu, nay là huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc; đỗ Tiến sĩ vào năm 723 và làm quan đến chức Tư huân viên ngoại lang. Ông sáng tác rất nhiều thơ với những đề tài khác nhau. Tuyển tập Toàn Đường thi đã chọn hơn bốn mươi bài của Thôi Hiệu. Tên tuổi của ông gắn liền với bài Hoàng Hạc lâu (Lầu Hoàng Hạc) nổi tiếng, được truyền tụng rộng rãi trong và ngoài nước qua hàng ngàn năm nay:

Phiên âm chữ Hán:

Tích nhân đã thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tài không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch thơ tiếng Việt:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

(Tản Đà dịch)

Bài thơ phản ảnh tâm trạng u hoài trước thời thế của thi nhân và tâm trạng ấy đã được thể hiện qua ngọn bút điêu luyện, tài tình hiếm có. Thôi Hiệu đã lấy tên lầu Hoàng Hạc làm tên bài thơ. Ngôi lầu này là một trong “Trung Hoa tam đại lâu”, tức là ba lâu đài nổi tiếng của Trung Hoa: Hoàng Hạc Lâu (Vũ Hán), Nhạc Dương Lâu (Hồ Nam) và Đằng Vương Các (Giang Tây).

Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa có người tên là Phí Văn Phi, một hôm leo lên mỏm núi bên sông Trường Giang rồi cưỡi hạc vàng bay vào cõi tiên. Người đời sau gọi mỏm núi này là Hoàng Hạc Cơ và dựng Hoàng Hạc Lâu để kỉ niệm sự tích ấy. Hoàng Hạc Lâu được xây dựng từ năm 653, đời Đường Vĩnh Huy, là một toà lầu đồ sộ, cao năm tầng với những mái ngói cong vút in hình trên nền trời xanh thẳm, trông giống như những đôi cánh hạc đang bay. Từ trên cao nhìn xuống, toàn cảnh núi sông hoành tráng thu gọn trong tầm mắt. Nơi đây, các tao nhân mặc khách thường gặp gỡ nhau uống rượu, bình thơ và đề thơ lên vách lầu.

Vẻ đẹp của lầu Hoàng Hạc đã trở thành đề tài ngâm vịnh của hàng ngàn thi sĩ. Thôi Hiệu đến đây lúc ngôi lầu đã ở trong tình trạng hoang tàn, những nét vàng son rực rỡ thuở nào giờ chỉ còn là dĩ vãng. Nhà thơ bâng khuâng, nuối tiếc:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

(Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.)

Câu thơ đầu nhắc lại huyền thoại về sự ra đời của lầu Hoàng Hạc. Đấy là cái thuở thanh bình, mơ mộng, tiên còn ở lẫn với người. Trải bao tang thương dâu bể, thế giới ấy đã lùi xa, xa tít, để lại cho thi nhân một nỗi ngậm ngùi khôn tả. Hình ảnh lầu Hoàng Hạc giờ đây đứng chơ vơ, cô quạnh bên bãi vắng, sông trôi, khiến thi sĩ chạnh lòng hoài cổ:

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

(Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.)

Hình ảnh Hạc vàng gắn liền với khung cảnh thần tiên. Hạc vàng bay đi không bao giờ trở lại, mang theo tất cả những gì đẹp đẽ nhất, thơ mộng nhất. Bóng người xưa cũng đã mịt mù, chỉ còn mây trắng vẫn bay như ngàn năm trước. Câu thơ chữ Hán: Bạch vân thiên tải không du du vừa tả cảnh vừa ngụ tình, ẩn chứa một nỗi hoài cổ khôn khuây. Nhà thơ thả hồn theo mây, theo gió, mặc cho thời gian cứ chầm chậm trôi qua trong không gian tịch mịch, cô liêu.

Từ trên lầu cao, thi sĩ phóng tầm mắt ra xa. Khung cảnh thiên nhiên hiện lên với những đường nét, màu sắc hài hoà, đẹp như một bức tranh sơn thuỷ:

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

(Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.)

Từ cõi mộng, thi sĩ đã trở về cõi thực. Ông cảm nhận và rung động mãnh liệt trước sức sống hiển hiện trong từng sự vật. Nắng chiều soi rõ hàng cây xanh tốt cạnh bến Hán Dương, soi rõ cả thảm cỏ non mơn mởn trên bãi xa Anh Vũ. Ngọn bút kì tài của Thôi Hiệu chỉ chấm phá vài nét đơn sơ nhưng đã thâu tóm được cái hồn của cảnh vật. Chính sự tương phản giữa khung cảnh hoang tàn của lầu Hoàng Hạc với khung cảnh thiên nhiên xanh tươi xung quanh nó đã làm cho thi sĩ chạnh lòng. Nỗi buồn chẳng vơi đi mà cứ trào dâng lên mãi trong tâm hồn người xa xứ:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Nhịp điệu 2 /2/1/ 2 trong hai câu thơ chữ Hán:

Nhật mộ / hương quan / hà / xứ thị?

Yên ba / giang thượng / sử / nhân sầu.

và nhịp 2 / 2/ 2 trong hai câu thơ dịch của Tản Đà đã tạo nên âm hưởng trầm buồn, diễn tả rất thành công tâm trạng da diết thương nhớ quê hương của Thôi Hiệu - một thi sĩ có trái tim đa cảm.

Như vậy là trong bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật này chỉ có hai câu 5 và 6 là ánh lên một chút vui. Chút vui ấy không khuây khoả nổi nỗi buồn trĩu nặng trong tâm hồn thi sĩ - một mối sầu vạn cổ - rất khó giãi bày, san sẻ. Cảnh trên sông khói sóng khiến cho vạn vật như chìm dần vào cõi mông lung, vô định. Đó chính là tác nhân khơi dậy nỗi nhớ quê hương đau đáu trong lòng nhà thơ. Nhà thơ băn khoăn tự hỏi không biết quê hương mình ở tận phương nào? Cái hay của hai câu kết thúc nằm ở chữ sầu. Toàn bộ cảnh và tình mà thi sĩ miêu tả trong suốt bài thơ tụ lại chỉ trong một chữ ấy. Nó là “nhãn tự”, “thần tự” đúc kết tinh hoa của kiệt tác để đời Hoàng Hạc lâu.

Viết về lầu Hoàng Hạc, có đến hàng ngàn bài thơ của hàng ngàn thi sĩ thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Lí Bạch, “Thi tiên” của thời Thịnh Đường trong một dịp đến đây cũng nảy sinh ý định đề thơ ngâm vịnh, nhưng sau khi đọc bài thơ của Thôi Hiệu thì gác bút, không dám làm nữa. Giai thoại ấy cũng là cách khẳng định giá trị bất hủ của bài thơ Hoàng Hạc Lâu và tên tuổi Thôi Hiệu.