I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Bài ca dao Khăn thương nhớ ai thể hiện tâm tư sâu kín và những trạng thái phức tạp, tinh tế của tâm hồn cô gái đang yêu.
- Những lo phiền chất chứa trong lòng cô gái đều xuất phát từ niềm thương nỗi nhớ người yêu da diết.
2. Thân bài:
* Phân tích bài thơ: Nỗi niềm nhớ thương da diết khôn nguôi.
- Thương nhớ là thứ tình cảm trừu tượng khó hình dung nhưng trong bài ca dao này nó đã được diễn tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm nhờ thủ pháp nghệ thuật nhân hoá và những hình ảnh tượng trưng giàu ý nghĩa biểu cảm. (Các sự vật quen thuộc như cái khăn, cái đèn và hình ảnh đôi mắt).
- Cái khăn thường là kỉ vật để trao duyên, gợi nhớ tới người yêu đang xa cách. Hình ảnh ngọn đèn trong đêm thâu cũng thể hiện nỗi thao thức nhớ mong. Hình ảnh mắt ngủ không yên là một hoán dụ nghệ thuật đặc tả tâm trạng của cô gái đang xa cách người yêu.
- Điệp từ khăn, đèn, mắt và điệp ngữ thương nhớ ai lặp đi lặp lại thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết, càng lúc càng trào dâng khiến cô gái bồn chồn, băn khoăn, lo lắng.
- Nỗi nhớ thương từ con người lan toả sang sự vật. Cái khăn, ngọn đèn là cái cớ để cô gái bày tỏ nỗi nhớ mong cháy lòng của mình. Đôi mắt - cửa sổ tâm hồn - đã thay cô gái nói lên tâm trạng ấy.
- Nếu ở phần trên, tâm tư, tình cảm của cô gái được gửi gắm gián tiếp qua cái khăn, ngọn đèn, đôi mắt, thì ở hai câu cuối, nó được bày tỏ trực tiếp và rõ ràng hơn:
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề...
- Cô gái nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận lứa đôi vì tình yêu dù tha thiết, gắn bó đến đâu cũng khó dẫn đến hôn nhân bởi gặp nhiều ngăn cách, cản trở từ gia đình, xã hội.
3. Kết bài:
- Bài ca dao trên là tiếng hát trữ tình của một trái tim khao khát yêu thương.
- Nỗi nhớ da diết và đượm buồn lo nhưng không hề bi lụy. Đó cũng là nét đẹp trong tâm hồn các cô gái ngày xưa.
II. BÀI LÀM
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề...
Bài thơ được viết theo thể bốn chữ và kết thúc bằng hai câu lục bát rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái phức tạp, tinh tế của tâm hồn. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao là cô gái đang sống trong tâm trạng thương nhớ người yêu khôn nguôi. Những lo phiền chất chứa trong lòng cũng xuất phát từ niềm thương nhớ ấy.
Thương nhớ vốn là thứ tình cảm khó hình dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Vậy mà ở bài này, nó lại được diễn tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm nhờ cách nói bằng những hình ảnh tượng trưng mang tính nghệ thuật cao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã được gửi gắm vào các sự vật như cái khăn, cái đèn, đôi mắt, đặc biệt là hình ảnh cái khăn.
Xưa kia, cái khăn thường là kỉ vật để trao duyên, gợi nhớ đến người yêu đang xa cách:
Gửi khăn, gửi áo, gửi lời,
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa.
Ноặс:
Nhớ khi khăn mở, trầu trao,
Miệng thì cười nụ biết bao nhiêu tình.
Các tác giả dân gian mượn ngoại vật là cái khăn, cái đèn đã được nhân hoá và con mắt là hoán dụ để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình. Rõ ràng mục đích của nhà thơ bình dân là biến cái khăn, cái đèn, đôi mắt thành biểu tượng cho nỗi niềm thương nhớ của người con gái đang yêu.
Sáu câu thơ cấu trúc theo lối vắt dòng lấy lại sáu lần từ Khăn ở vị trí đầu câu và lấy lại ba lần câu hỏi thương nhớ ai thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ lại trào dâng. Yêu và nhớ là hai mặt của tình yêu, yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Đó là nỗi nhớ có không gian trải ra trên nhiều chiều: Khăn rơi xuống đất, Khăn vắt lên vai, Khăn chùi nước mắt và biểu hiện trong mọi suy nghĩ, hành động, khiến cô gái bồn chồn, khắc khoải như đứng đống lửa, như ngồi đống than và rơi nước mắt.
Sáu câu thơ hỏi khăn gồm 24 chữ, thì đã có đến 16 thanh bằng mà hầu hết là thanh không, gợi nỗi thương nhớ người yêu đến cháy lòng của cô gái. Tuy vậy, cô vẫn biết kìm nén dòng cảm xúc đang dâng trào trong tâm hồn.
Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và trải dài theo thời gian. Nỗi nhớ được tiếp tục gửi vào ngọn đèn: Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Chừng nào ngọn lửa tình yêu vẫn cháy sáng trong trái tim người con gái thì ngọn đèn kia vẫn sáng thâu đêm. Đèn không tắt hay chính con người đang thao thức thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng? Nếu trên kia, cái khăn đã biết giãi bày, thì ở đây, ngọn đèn cũng biết thổ lộ. Nó nói với chúng ta nhiều điều không có trong lời ca...
Cuối cùng, cô gái hỏi chính đôi mắt của mình. Dù kín đáo, gợi cảm bao nhiêu chăng nữa thì cái khăn và ngọn đèn cũng chỉ là những hình ảnh được mượn làm cái cớ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Đến đây, dường như không kìm lòng được nữa, cô gái đã hỏi trực tiếp chính mình: Mắt thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Nỗi nhớ thương nặng trĩu, cho nên : Đêm nằm lưng chẳng tới giường. Cứ nhắm mắt vào, hình ảnh người thương lại hiện ra, ngủ làm sao cho được! Ở trên là đèn không tắt thì ở đây Mắt ngủ không yên. Hình tượng thơ thật hợp lí, nhất quán và tự nhiên như tình yêu và niềm thương nỗi nhớ của cô gái.
Nếu tâm trạng cô gái trong những câu thơ bốn chữ được diễn tả bằng hình thức gián tiếp thì đến hai câu lục bát cuối cùng nó đã được giãi bày trực tiếp. Ở trên, nỗi nhớ còn được che giấu ít nhiều bằng những hình ảnh có tính chất tượng trưng thì đến đây trái tim đã tự thốt lên lời.
Tâm trạng lo phiền của cô gái cũng xuất phát từ cội nguồn thương nhớ. Cô Lo vì một nỗi không yên một bề. Một nỗi, một bề mà hoá thành rất nhiều vấn vương, thao thức. Cô gái lo cho chàng trai hay lo rằng chàng trai không yêu thương mình tha thiết như mình đã yêu thương chàng? Đấy cũng là tâm trạng phổ biến của những cô gái đang yêu.
Nỗi nhớ được nói đến dồn dập trong 10 câu thơ 4 chữ, chỉ có lời hỏi mà không có lời đáp. Những câu trả lời đã được gián tiếp khẳng định trong năm điệp khúc thương nhớ ai vang mãi không dứt như một niềm khắc khoải để rồi cuối cùng trào ra thành một niềm lo âu thực sự cho hạnh phúc lứa đôi:
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề...
Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt, lãng mạn bay bổng tới đâu chăng nữa cũng gắn bó với đời thường mà đời thường vốn lại nhiều dâu bể. Bởi thế mà cô gái nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận đôi lứa không yên một bề. Vì sao vậy? Phải đặt bài ca này vào cuộc sống của người phụ nữ xưa và trong hệ thống của những bài ca than thân về hôn nhân và gia đình thì ta mới thấy hết ý nghĩa của hai câu kết. Hạnh phúc lứa đôi của họ thường bấp bênh vì tình yêu tha thiết nhiều khi không dẫn đến hôn nhân. Mặc dầu vậy, bài ca dao vẫn là tiếng hát của một trái tim khao khát yêu thương. Điều đó khiến cho nỗi nhớ này không hề bi luỵ mà như một nét đẹp trong tâm hồn đáng quý của các cô gái Việt ở làng quê xưa.