I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là truyền thuyết đặc sắc về chủ đề giữ nước của dân tộc ta.
- Thông qua thất bại đau đớn của An Dương Vương và sự tan vỡ của mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ, nhân dân ta đã biểu lộ tư tưởng phản đối, lên án chiến tranh xâm lược phi nghĩa và rút ra bài học giữ nước sâu sắc : Không nên chủ quan, mất cảnh giác trước kẻ thù.
2. Thân bài:
* Nhân vật An Dương Vương:
- An Dương Vương kế tục sự nghiệp dựng nước của mười tám đời vua Hùng.
- Ông nhận thức được rằng giữ nước là vấn đề sống còn của dân tộc nên đã quyết định dời đô từ Phong Châu (vùng núi Phú Thọ) về Phong Khê (đồng bằng, ngoại thành Hà Nội) và bắt tay ngay vào việc xây thành. Điều đó chứng tỏ ông có trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh vững vàng.
- Được Rùa Vàng (thần Kim Quy) giúp đỡ, An Dương Vương đã xây xong Loa thành và còn được Rùa Vàng cho một chiếc vuốt làm lẫy nỏ thần để giữ nước.
- Có thành cao hào sâu, có nỏ thần bắn một mũi tên giết hàng trăm giặc nên An Dương Vương đã đánh bại quân xâm lược của Triệu Đà từ phương Bắc kéo sang.
- Sau chiến thắng, An Dương Vương sinh ra chủ quan, coi thường địch, dẫn đến mất cảnh giác, mắc mưu sâu của Triệu Đà. (Cầu hoà, cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thuỷ - thực tế là làm do thám để lấy cắp lẫy thần). Sai lầm nghiêm trọng nhất của An Dương Vương là cho Trọng Thuỷ ở rể trong Loa thành.
- Khi lẫy thần đã bị Trọng Thuỷ đánh tráo mang về nước, Triệu Đà lập tức tấn công. An Dương Vương cậy có nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ, quân giặc tràn vào thành mới đem nỏ thần ra bắn thì không còn hiệu nghiệm. An Dương Vương đành mang con gái lên lưng ngựa chạy trốn.
- Rùa Vàng lên án Mị Châu là “giặc”, An Dương Vương tỉnh ngộ bèn chém chết con mình rồi được Rùa Vàng rẽ nước đưa xuống biển. Bài học rút ra từ nhân vật An Dương Vượng rất thiết thực đối với những người đứng đầu đất nước.
* Nhân vật Mị Châu:
- Ngây thơ, xinh đẹp nhưng nhẹ dạ, cả tin.
- Vì thực lòng yêu Trọng Thuỷ nên đã lén cho xem bí mật của nỏ thần, vô tình tiếp tay cho giặc. Nàng phải chịu một cái chết thảm khốc.
- Nhân vật Mị Châu vừa đáng giận vừa đáng thương.
* Nhân vật Trọng Thuỷ:
- Bị cha biến thành tay sai để thực hiện tham vọng cướp nước. Trung thành với cha một cách mù quáng, không phân biệt được chiến tranh phi nghĩa, chính nghĩa.
- Dùng thủ đoạn để chiếm đoạt lẫy thần, đó là hành động đáng lên án.
- Dù sau này có thực lòng yêu Mị Châu thì tội lỗi của Trọng Thuỷ cũng không thể tha thứ. Sự tự trừng phạt mình bằng cái chết của Trọng Thuỷ là xứng đáng.
- Tuy nhiên, xét đến cùng thì anh ta cũng là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa.
3. Kết bài:
- Truyện cổ trên được người Việt yêu thích bởi giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật độc đáo.
- Thông qua truyện, chúng ta có thể hình dung phần nào về bi kịch mất nước của dân tộc Việt thời kì Âu Lạc.
- Truyện là bài học nhắc nhở chúng ta phải sáng suốt trong quan hệ bạn thù để giữ gìn đất nước trước nạn ngoại xâm.
II. BÀI LÀM
Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là một truyền thuyết đặc sắc về chủ đề giữ nước của dân tộc ta. Nội dung kể về cha con An Dương Vương vì chủ quan, nhẹ dạ cả tin nên đã bị cha con Triệu Đà, Trọng Thuỷ lấy cắp lẫy thần, dẫn đến cảnh nhà tan, nước mất.
Thông qua thất bại đau đớn của An Dương Vương, sự tan vỡ của tình cha con và kết cục bi thảm của đôi lứa Mị Châu - Trọng Thuỷ, nhân dân ta đã biểu lộ tư tưởng phản kháng chiến tranh xâm lược và rút ra bài học giữ nước sâu sắc: không nên chủ quan, tự mãn, ỷ lại vào vũ khí, phải luôn sáng suốt phân biệt rõ bạn thù, mài sắc cảnh giác trước mọi âm mưu thâm độc của kẻ địch.
Truyện có thể chia làm hai phần. Phần một (từ đầu đến... không dám đốc chiến bèn xin hoà): An Dương Vương xây thành, chế nỏ giữ nước. Phần còn lại: Bi kịch tình yêu của Mị Châu - Trọng Thuỷ gắn liền với thất bại của nước Âu Lạc. Cả hai phần của truyện đều thể hiện rõ nhận thức và thái độ của nhân dân đối với vai trò và trách nhiệm của cha con An Dương Vương trước lịch sử.
An Dương Vương kế tục sự nghiệp dựng nước của mười tám đời Hùng Vương. Thời ấy, Văn Lang đã có bờ cõi và nền văn hiến riêng. Vì vậy, việc chống giặc giữ nước là vấn đề sống còn của dân tộc. An Dương Vương đã tiến hành dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu (Phú Thọ) về vùng đồng bằng Phong Khê (Đông Anh, Hà Nội ngày nay) để phát triển sản xuất và mở rộng lưu thông rồi bắt tay ngay vào việc xây thành. Đó là quyết sách đúng đắn chứng tỏ trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương.
Việc xây thành bằng đất gặp nhiều khó khăn. Chuyện kể rằng thành cứ đắp ban ngày thì ban đêm lại đổ, xây mãi không xong. Người xưa giải thích hiện tượng ấy là do sự phá hoại của ma quỷ. Lược bỏ yếu tố hoang đường, ta có thể thấy những khó khăn trong thực tế mà An Dương Vương gặp phải khi tiến hành công việc xây thành. Đó là do ông chưa nắm được đặc điểm của đất đồng bằng, do kĩ thuật còn hạn chế và chưa biết dựa vào sức dân.
Sau này, được sứ Thanh Giang tức Rùa Vàng giúp đỡ, An Dương Vương xây thành chỉ trong vòng nửa tháng là xong. Hành động lập đàn trai giới, đón mời cụ già vào điện hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe lời Rùa Vàng diệt trừ yêu quái,... thể hiện thái độ trân trọng hiền tài của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự giúp đỡ của Rùa Vàng chứng tỏ việc xây Loa Thành của An Dương Vương là hợp ý trời, hợp lòng người, cho nên được dân chủng ủng hộ.
An Dương Vương trước hết là một nhà quân sự xuất sắc. Ông đã biết xây thành cao, đào hào sâu để bảo vệ kinh đô. An Dương Vương được Cao Lỗ hỗ trợ trong việc chế tạo ra cung nỏ để chống quân xâm lược. Sức mạnh của thứ vũ khí ấy đã được các tác giả dân gian kì diệu hoá, thần thánh hoá bằng hình tượng nỏ thần.
Hình tượng then chốt của truyện là chiếc lẫy thần. Rùa Vàng giúp vua xây xong Loa Thành và cho nhà vua vũ khí để bảo vệ đất nước. Nỏ thần tượng trưng cho sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, tượng trưng cho trí tuệ, sức mạnh và khát vọng chiến thắng ngoại xâm của tổ tiên ta thuở ấy.
Chiếc nỏ thần có khả năng bắn một phát giết hàng vạn giặc vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng, vừa phản ánh trình độ chế tạo và sử dụng vũ khí chiến đấu của người Âu Lạc. Quân ta đã chế tạo ra cung nỏ và đúc được mũi tên bằng đồng. Vũ khí ấy tuy thô sơ nhưng không kém phần lợi hại trong các cuộc chiến đấu chống xâm lăng.
Khi Triệu Đà kéo quân sang xâm lược, vì An Dương Vương có nỏ thần trong tay nên quân Triệu Đà thua to, không dám đối đầu, bèn xin hoà. Chiến thắng của An Dương Vương chứng tỏ sức mạnh quân sự của nhà nước Âu Lạc lúc bấy giờ, đồng thời khẳng định ý chí, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Đây là bài học tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Sau chiến thắng, An Dương Vương sinh ra chủ quan, quên rằng nguy cơ xâm lược của kẻ thù phương Bắc luôn luôn tồn tại. Chúng ta đau xót cho cha con An Dương Vương vì sai lầm tai hại nên dẫn đến thảm hoạ mất nước. Nhà vua không phân tích được hành động cầu hoà rồi cầu hôn cho con trai của Triệu Đà thực chất là âm mưu thâm độc, chuẩn bị cho cuộc xâm lược tiếp theo. Thất bại của An Dương Vương không phải chờ tới khi quân giặc tiến đến chân thành mới bộc lộ, mà bộc lộ ngay từ khi nhà vua mất cảnh giác, đồng ý cho Trọng Thuỷ vào thành. Ông đã bằng lòng gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ, lại còn cho ở rể, việc đó có khác chi “Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”?! Đây là sự hoà hiếu thiếu cảnh giác, tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ thù phá từ trong phá ra. Mầm mống mất nước khởi nguồn từ đây.
Sau chiến thắng, An Dương Vương không quan tâm đến việc củng cố lực lượng, không dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân để chống giặc mà lại ỷ vào vũ khí, vào sự hỗ trợ của thần linh. Những nhược điểm ấy khi kẻ thù nắm được tất dẫn đến thất bại không thể tránh khỏi.
Nghe tin báo Triệu Đà lại cất quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương cậy có nỏ thần vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Thái độ chủ quan khinh địch đó đã dẫn An Dương Vương nhanh chóng đến thất bại thảm hại. Tới khi giặc đã tiến sát chân thành, An Dương Vương mới cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy. Trong cơn cùng quẫn, An Dương Vương chỉ còn cách đem theo con gái lên ngựa, bỏ thành mà chạy về phương Nam.
Cha con An Dương Vương đã cùng đường mà quân thù thì cứ theo dấu lông ngỗng của Mị Châu rắc dọc đường truy đuổi sát sau lưng. Quả là cha con An Dương Vương đã mất thế trời che, đất chở. Khi Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó!” thì An Dương Vương mới tỉnh ngộ. Đây là lời kết tội đanh thép của công lí, của nhân dân về hành động vô tình phản quốc của Mị Châu. Nhà vua tự tay chém chết cô con gái yêu dấu, cũng là tự xử một cách nghiêm khắc, quyết liệt đối với sai lầm của bản thân. Nhưng tất cả đều đã quá muộn màng. Câu chuyện kết thúc thật bi thảm!
Hành động rút gươm chém Mị Châu thể hiện lập trường dứt khoát của An Dương Vương là đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xử án, đồng thời thể hiện sự tỉnh ngộ muộn màng trước lỗi lầm nghiêm trọng của mình. Đây là cái giá mà ông phải trả cho sai lầm không thể sửa chữa, liên quan đến vận mệnh đất nước và dân tộc. Hai cha con An Dương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác nên đã trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp và đẩy Âu Lạc vào thảm hoạ mất nước. Đó là bài học xương máu về thái độ mất cảnh giác đối với kẻ thù dành cho những người đứng đầu, chịu trách nhiệm về sự tồn vong của quốc gia.
Hình ảnh An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, theo Rùa Vàng xuống thuỷ phủ là yếu tố kì ảo phản ánh thái độ và tình cảm của nhân dân đối với ông. Nhân dân thương tiếc vị vua tài ba, anh dũng nên không muốn ông chết. Chi tiết lòng biển bao dung đón người anh hùng vào cõi bất tử thể hiện sự ngưỡng mộ và thương tiếc của người xưa.
Sai lầm của An Dương Vương cũng là nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của Mị Châu. Mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ là mối tình éo le bởi nó không phải là sản phẩm của tình yêu tự nhiên mà là sản phẩm của một âm mưu thâm hiểm trong cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Mị Châu sai lầm ở tình yêu mù quáng nên vô tình đã tự biến mình thành tòng phạm với giặc. Nàng ngây thơ chân thật đến mức nhẹ dạ cả tin. Nàng dám giấu cha cho Trọng Thuỷ xem trộm nỏ thần mà quên rằng đó là con trai của kẻ thù. Từ đó, Mị Châu đã tiếp tay cho Trọng Thuỷ đánh cắp bí mật vũ khí lợi hại của quốc gia, dẫn tới thảm hoạ đất nước rơi vào tay giặc. Trên đường trốn chạy, nàng lại tiếp tục rắc lông ngỗng chỉ đường cho giặc truy đuổi vua cha. Hai hành động ấy của Mị Châu là trọng tội. Nhiều người cho rằng những hành động trên là vô tình nhưng xét cho cùng thì vì Mị Châu quá tin yêu Trọng Thuỷ nên đã mù quáng nghe theo lời chồng. Rùa Vàng gọi đích danh nàng là giặc quả không sai vì nàng đã gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Triệu Đà, chúa đất Nam Hải mang quân sang cướp đất Âu Lạc nhưng thất bại vì An Dương Vương có nỏ thần. Biết dùng sức không được, hắn chuyển sang dùng kế. Triệu Đà xin giảng hoà, sau đó cầu thân rồi cầu hôn cho con trai. (Ngày xưa, trong quan hệ bang giao, các quốc gia hay dùng con tin hoặc cầu hôn để giữ hoà hiếu).
Đây là âm mưu hết sức thâm độc. Người giúp Triệu Đà phá nỏ thần và chiếm được Âu Lạc chính là Trọng Thuỷ. Trọng Thuỷ là nhân vật đáng thương nhưng cũng thật đáng ghét. Chàng chấp nhận làm công cụ thực hiện ý đồ xâm lược của cha. Tuy là con rể An Dương Vương nhưng thực chất Trọng Thuỷ là tên gián điệp lợi hại cài vào đất Âu Lạc. Bằng mọi thủ đoạn xảo quyệt, Trọng Thuỷ đã lừa Mị Châu để đánh tráo lẫy thần, sau đó nói dối là về thăm cha để mang lẫy thần về nước. Triệu Đà có được lẫy thần, cả mừng liền cất binh sang đánh chiếm Âu Lạc một lần nữa.
Trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng tin chồng thì Trọng Thuỷ lại lừa dối nàng và rắp tâm chiếm đoạt lẫy thần. Tuy vậy, những ngày ở Loa Thành, sống bên người vợ đẹp người, ngoan nết, Trọng Thuỷ đã nảy sinh tình yêu thật sự với Mị Châu. Mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thuỷ là tham vọng chiếm được Âu Lạc và tham vọng trọn tình với người đẹp cũng bắt đầu nảy sinh. Nhưng hai tham vọng đó không thể dung hoà. Vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ Trọng Thuỷ phải vui hưởng vinh quang thì chàng lại đau khổ đến mức tự tử vì ân hận và thương tiếc Mị Châu. Trọng Thuỷ tự tử vì hiểu ra rằng không thể giải quyết mâu thuẫn gay gắt trong con người mình. Cái chết của chàng đã gợi chút xót xa, tội nghiệp trong lòng mọi người.
Mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ éo le là do luôn bị âm mưu xâm lược của Triệu Đà chi phối. Vì vậy, kết thúc bi thảm của mối tình đó thực sự mang ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Tình yêu Mị Châu - Trọng Thuỷ thắm thiết nhưng bi thảm. Nhân dân ta không ca ngợi, mà chỉ dành cho họ một niềm thương xót vì hạnh phúc lứa đôi của họ bị chiến tranh làm cho tan vỡ. Mối oan tình ấy đã được đền bù bằng hình ảnh ngọc trai, giếng nước. Đây là hình ảnh thể hiện thái độ phản kháng chiến tranh xâm lược, là tiếng nói nhân đạo và cũng là cách kết thúc có hậu của truyện cổ.
Người Việt vốn trọng đạo lí và giàu lòng nhân ái nên mới giảm nhẹ tính bi thương của truyện bằng những hình ảnh có tính chất kì ảo: An Dương Vương được Rùa Vàng đưa xuống thuỷ cung ; lời khấn nguyện của Mị Châu ứng nghiệm, máu nàng chảy xuống biển, một loài trai ăn phải hoá thành ngọc ; ngọc Mị Châu đem rửa bằng nước giếng nơi Trọng Thuỷ trầm mình thì sẽ sáng ngời.
Truyện An Dương Vương, Mị Châu - Trọng Thuỷ được nhiều thế hệ người Việt Nam yêu thích bởi giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật độc đáo của nó. Thông qua truyện, chúng ta có thể hình dung được phần nào về bị kịch mất nước của dân tộc ta thời kì Âu Lạc và càng thấm thía hơn bài học giữ nước mà tổ tiên ta đã đúc kết. Câu chuyện còn nhắc nhở chúng ta bài học về bạn và thù ; mối quan hệ giữa nước và nhà... Những bài học lớn rút ra từ truyền thuyết này luôn luôn nóng hổi ý nghĩa giáo dục trong mọi hoàn cảnh và mọi thời đại.