I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) quê xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Ông đỗ Trạng nguyên năm 1535 nên còn được gọi là Trạng Trình.

- Ông là nhà thơ nổi tiếng của thế kỉ XVI. Thơ ông mang đậm chất triết lí, giáo huấn; ca ngợi khí tiết thanh cao của kẻ sĩ chân chính, phê phán những điều xấu xa trong xã hội đương thời.

- Bài thơ Nhàn in trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi, nội dung thể hiện tâm sự của tác giả và quan niệm sống nhàn, hoà hợp với thiên nhiên, gìn giữ cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên danh lợi tầm thường.

2. Thân bài:

* Phân tích bài thơ.

+ Hai câu đề: cuộc sống nhàn nhã, ung dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

- Quan Trạng về ở ẩn chốn quê nhà này đã giống như một lão nông quen với cuộc sống ruộng đồng lam lũ hằng ngày. Cách đếm: Một mai, một cuốc, một cần câu cho thấy những vật dụng này đã trở nên gắn bó với ông.

- Nguyễn Bỉnh Khiêm tự rời bỏ chốn triều đình nhiễu nhương, từ bỏ quan cao tước lớn để về quê di dưỡng tinh thần, bảo vệ khí tiết của một bậc danh Nho. Đó là cách tỏ thái độ coi thường danh lợi.

- Câu thứ hai : Thơ thẩn dầu ai vui thú nào vừa thể hiện tâm trạng thanh thản, phong thái ung dung của nhà thơ, vừa kín đáo mỉa mai thói đời chạy theo thú vui danh lợi và những dục vọng khác làm ô trọc nhân cách.

+ Hai câu thực: Quan niệm về lẽ khôn, dại ở đời của tác giả:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

- Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình là dại (vì từ bỏ lợi danh, thứ mà nhiều người ao ước), để tìm nơi vắng vẻ, thực hiện quan điểm sống nhàn, xa lánh thói đời tham, sân, si...; đối lập với số đông quan lại thời bấy giờ cho rằng quan niệm sống tuỳ thời là khôn, nên tranh nhau tìm kiếm chốn lao xao (tức những chỗ có danh có lợi). Ấn chứa trong hai câu thơ là nụ cười mỉa mai thâm thuý của tác giả - người đã thấu hiểu sự đời.

+ Hai câu luận: Cuộc sống thanh bần, hoà hợp với thiên nhiên:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

- Là bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt giản dị, gắn liền với thiên nhiên của nhà thơ trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Về mặt tinh thần, cuộc sống giản dị, thanh bạch như thế cho phép con người được sống an nhiên, tự do, tự tại. Không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn phép nào.

- Đó là điều cần thiết để giữ được bản chất, khí tiết trong sạch và cũng là cơ sở của triết lí sống nhàn mà tác giả ca ngợi.

+ Hai câu kết: Khẳng định và đề cao quan điểm sống nhàn.

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

- Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định sự lựa chọn lối sống nhàn của mình là đúng. Ông sáng suốt nhận ra rằng công danh, phú quý mà người đời nhọc công theo đuổi rốt cuộc chỉ là một giấc chiêm bao mà thôi.

- Điều đó đã giúp ông thêm kiên định và đủ quyết tâm từ bỏ chốn phồn hoa danh lợi ồn ã, lao xao để tìm về nơi vắng vẻ, sống giữa thiên nhiên tươi đẹp, trong lành để tu dưỡng nhân cách, tinh thần.

3. Kết bài:

- Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không tiêu cực, quay lưng với xã hội mà là xa lánh con đường danh lợi làm tha hoá nhân cách và để được gần gũi, gắn bó, hoà hợp với thiên nhiên.

- Đặt trong hoàn cảnh xã hội có những biểu hiện suy thoái về đạo đức thì quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực. Chân dung tinh thần cao quý của Nguyễn Bỉnh Khiêm xứng đáng lưu danh muôn thuở.

II. BÀI LÀM

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) quê ở làng Trung Am, xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Ông đỗ Trạng nguyên năm 1535 và ra làm quan dưới triều nhà Mạc. Ông đã để lại cho đời tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng trên 170 bài). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ca ngợi ý chí thanh cao của kẻ sĩ và biểu dương quan niệm sống nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội đương thời.

Nhàn là bài thơ Nôm nằm trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi. Nhan đề bài thơ là do người đời sau đặt. Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên những danh lợi tầm thường.

Hai câu thơ đầu phản ánh cuộc sống nhàn nhã, ung dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Quan Trạng về sống giữa chốn thôn quê nay đã giống như một “lão nông tri điền”, hằng ngày làm bạn với những công cụ lao động như mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để câu cá... Cách dùng số từ tính đếm rành rọt cho thấy tất cả đã trở nên gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống của ông.

Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác đơn sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền” (đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn) xa xưa. Quan Trạng đang áo mũ xênh xang, chức lớn, bổng lộc nhiều, ấy vậy mà bỗng dưng rũ bỏ tất cả để trở về với đời sống “tự cung tự cấp” thì cũng đã là một sự ngông ngạo trước thói đời hám danh, hám lợi. Ngông ngạo mà không ngang tàng, cứ thuần hậu, nguyên thuỷ, chân chất nông dân:

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Hai chữ Thơ thẩn phản ánh một cách tài tình phong cách ung dung và tâm trạng thảnh thơi của con người tự cho mình là đã xa lánh cõi trần tục đầy tham, sân, si; trong lòng không còn vướng bận những âm mưu, toan tính bon chen. Niềm vui như hiện lên trong từng bước đi thong thả, nhàn nhã. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, thanh thản một cách lạ kì. Cụm từ dầu ai vui thú nào còn nói lên lập trường kiên định của nhà thơ trước lối sống đã lựa chọn. Chữ ai vốn là một đại từ phiếm chỉ, được tác giả sử dụng trong câu thơ này với một nghĩa rất rộng, càng suy ngẫm càng thấy thú vị.

Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan, trở về quê nhà tức là trở về với thiên nhiên. Sống hoà hợp với thiên nhiên có nghĩa là đã thoát khỏi vòng tranh đua của thói tục, không còn bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Nhân cách thanh cao Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. Vắng vẻ đối lập với lao xao, ta đối lập với người. Tìm nơi vắng vẻ không phải là lánh đời mà là tìm nơi mình thích thú, được sống thoải mái, an nhiên, khác xa chốn quan trường hiểm hóc vinh liền nhục. Nơi vắng vẻ là nơi không có chuyện cầu cạnh, bon chen. Nơi vắng vẻ là nơi thiên nhiên tươi xanh, mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn. Chốn lao xao là chốn cửa quyền trống giong cờ mở, là đường hoạn lộ tấp nập ngựa xe... Đến chốn lao xao là đến chốn chợ lợi đường danh huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để giành giật quyền lợi, để vinh thân phì gia. Đây là nơi có nhiều nguy hiểm khôn lường.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả có trí tuệ vô cùng sáng suốt. Sáng suốt trong sự chọn lựa: Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, mặc cho: Người khôn, người đến chốn lao xao. Sáng suốt trong cách nói đùa vui hóm hỉnh, ngược nghĩa: dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hoá dại.

Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Khôn mà hiểm độc là khôn dại,

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.

(Thơ Nôm)

Như vậy là quan niệm dại, khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.

Cuộc sống của bậc đại nhân ở am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao biết mấy:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Hai câu thơ tả cảnh sinh hoạt giản dị mà không kém phần thú vị nơi thôn dã với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhà thơ nói về chuyện sinh hoạt hằng ngày như chuyện ăn, chuyện tắm,... tuy cực kì đơn sơ nhưng thích thú ở chỗ mùa nào cũng sẵn, chẳng phải nhọc công tìm kiếm. Về mặt tinh thần, cuộc sống giản dị như thế cho phép con người được tự do, tự tại, không cần phải luồn cúi, cầu cạnh kẻ khác, không cần phải theo đuổi công danh, phú quý, không bị gò bó, ràng buộc vào bất cứ khuôn phép nào.

Những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá... đều là cây nhà lá vườn, do mình tự làm ra, là công sức của chính mình. Ăn đã vậy, còn ở, còn sinh hoạt? Quan Trạng giờ đây cũng tắm hồ sen, tắm ao như bao người dân quê khác.

Là bậc triết gia với trí tuệ uyên thâm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nắm vững lẽ biến dịch, hiểu thấu quy luật của Tạo hoá và của xã hội. Theo ông, cái khôn của bậc chính nhân quân tử là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hoà hợp với thiên nhiên thuần khiết.

Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Quan Trạng khẳng định một lần nữa sự lựa chọn lối sống nhàn của mình. Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ khác thường. Trí tuệ sáng suốt nhận ra rằng công danh, của cải, quyền quý chỉ tựa chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách, làm cho lập trường thêm kiên định để nhà thơ có đủ quyết tâm từ bỏ chốn quan trường lao xao danh lợi, tìm đến nơi thiên nhiên vắng vẻ mà trong sạch, thanh cao để di dưỡng tinh thần, giữ vững hai chữ thiện lương.

Nhàn là chủ đề rất phổ biến trong thơ văn thời trung đại. Nhàn là một nét tư tưởng và văn hoá rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là của tầng lớp trí thức. Sống nhàn hợp với tự nhiên, hợp với việc tu dưỡng nhân cách, có điều kiện dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ. Sống nhàn đem lại những thú vui lành mạnh cho con người. Biết sống nhàn, biết tìm thú nhàn là cả một học thuyết triết học lớn.

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn tránh vất vả, cực nhọc về thể chất, quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân. Ông cho rằng sống nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh lợi mà ông gọi là chốn lao xao. Nhàn là sống hoà hợp với tự nhiên, về với tự nhiên để tu tâm dưỡng tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến đương thời đã có những biểu hiện suy vị về đạo đức thì quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.

Chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Nhàn. Từ bức chân dung giản dị, mộc mạc ấy toát lên vẻ đẹp nhân cách cao quý, vẻ đẹp trí tuệ tuyệt vời của bậc đại Nho mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.