I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du.
- Tác giả sáng tác bài thơ này trong dịp được triều đình nhà Nguyễn cử đi sử sang Trung Quốc, có đến thăm cảnh đẹp Tây Hồ và được biết giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh.
- Bài thơ thể hiện tình cảm xót thương và nỗi băn khoăn, day dứt của tác giả trước số phận bất hạnh của Tiểu Thanh nói riêng và những con người tài hoa khác trong xã hội cũ nói chung.
2. Thân bài:
* Phân tích bài thơ.
+ Hai câu đề :
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
(Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư).
- Câu thứ nhất là cảm xúc tiếc nuối, ngậm ngùi của nhà thơ trước sự thay đổi nhanh chóng của Tây Hồ: cảnh đẹp hoá gò hoang. Mà cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh bạc mệnh.
- Câu thứ hai: nhà thơ thổn thức, xót thương trước những gì còn lại của kiếp người bất hạnh. Sự đồng điệu giữa tâm hồn nhà thơ và Tiểu Thanh bắt đầu từ đây.
+ Hai câu thực:
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
(Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư)
- Son phấn tượng trưng cho nhan sắc của người phụ nữ nói chung và Tiểu Thanh nói riêng. Sắc đẹp thì có thần (hồn), được lưu truyền mãi, sống mãi với đời. Nó có thể bị dập vùi, đày đoạ nhưng vẫn để thương để tiếc cho mọi người.
- Văn chương tượng trưng cho vẻ đẹp tinh thần của giới văn nhân tài tử nói chung và tài thơ phú của Tiểu Thanh nói riêng. Văn chương vô mệnh là văn chương không có sự sống chết cụ thể như con người. Tuy vậy, dường như nó có linh hồn, biết uất hận, đau đớn khi bị huỷ diệt.
- Tác giả mượn son phấn và văn chương để nói đến nỗi hận ngàn đời của nàng Tiểu Thanh tài hoa mệnh bạc.
+ Hai câu luận:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
(Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.)
- Nhà thơ tiếp tục bày tỏ cảm xúc tiếc thương, nâng cao, mở rộng nỗi hận của Tiểu Thanh thành nỗi hận truyền kiếp của giới văn nhân tài tử (cổ kim hận sự), không biết hỏi ai, khó mà hỏi trời (thiên nan vấn). Vì thế càng thêm hờn, thêm hận.
- Nhà thơ coi văn chương như là cái án phong lưu, khách tự mang. Biết là khổ sở, là nghiệp chướng vẫn tự chuốc lấy, tự vận vào mình.
- Nguyễn Du đã hoá thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều khiến bao thế hệ theo đòi nghiệp văn chương vẫn băn khoăn, day dứt.
+ Hai câu kết :
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?)
- Câu hỏi tu từ thể hiện tâm trạng đồng cảm của Nguyễn Du với Tiểu Thanh và ước mong được người đời đồng cảm, chia sẻ với mình, với những người như mình.
- Câu thơ như tiếng khóc thương cho thân phận của chính Nguyễn Du. Cảm xúc dẫn dắt từ thương người đến thương thân nhưng vẫn không lạc điệu.
3. Kết bài:
- Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí cho thấy lòng nhân ái sâu xa, rộng lớn của thi hào Nguyễn Du.
- Thương người, thương mình là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Vì vậy, có thể coi bài thơ là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du.
II. BÀI LÀM
Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.
Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. Ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.
Phiên âm chữ Hán:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch thơ Tiếng Việt:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
(Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang)
Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào?
Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình - kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.
Nguyễn Du có cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chỉ phụ nữ, tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cũng tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đoạ, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.
Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dù nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sống và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.
Đến hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang)
Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: Cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hoá? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận.
Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần. Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh tuý của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái ăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt.
Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chỉ khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác.
Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chăng?
Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ, cô độc, không kẻ tri âm, tri kỉ; một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cõi đời. Dường như nhà thơ đang mang tâm trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Mở đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương thân. Tứ thơ không có gì lạc điệu bởi đến đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hoà làm một - một số kiếp tài hoa mà đau thương trong muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.
Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.