I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Từ xưa, ca dao - dân ca đã được coi là vũ khí đấu tranh với kẻ thù và phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân.
- Bài ca dao trên là tiếng cười châm biếm loại phụ nữ xấu người, xấu nết.
2. Thân bài:
- Hai câu đầu: Tác giả dân gian giễu cợt nét xấu xí của cô vợ thông qua hình ảnh cường điệu: Lỗ mũi mười tám gánh lông và thái độ thiên vị, khoác lác của người chồng: Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
- Hai câu 3, 4: Tác giả châm biếm tật xấu của người vợ khi ngủ: ngáy o o và thái độ bao biện của người chồng: chồng bảo ngáy cho vui nhà.
- Hai câu 5, 6: Tác giả phê phán thói quen ăn quà là tật xấu đối với phụ nữ và thái độ bao che, nguỵ biện của người chồng: chồng bảo về nhà đỡ cơm.
- Hai câu cuối: Phê phán lối sống luộm thuộm, lôi thôi của người vợ: Trên đầu những rạ cùng rơm và thái độ cố tình lý tưởng hoá vợ mình của anh chồng.
* Phân tích nghệ thuật trào lộng đặc sắc của bài ca dao: cường điệu, phóng đại, điệp ngữ, ước lệ v.v...
3. Kết bài:
- Phong cách châm biếm nhẹ nhàng, sâu sắc của bài ca dao.
- Quan điểm phê phán của nhân dân là nhằm giáo dục con người vươn lên cái tốt, cái đẹp.
II. BÀI LÀM
Từ xưa, nhân dân ta đã lấy ca dao - dân ca làm vũ khí sắc bén đấu tranh với giai cấp thống trị áp bức bóc lột và phê phán các thói hư tật xấu trong nội bộ của mình. Tiếng cười vang lên mọi nơi, mọi lúc, hấp dẫn già trẻ, gái trai, tạo nên một không khí vui vẻ làm vơi bớt nỗi mệt nhọc sau một ngày lao động vất vả. Trong ca dao, người phụ nữ vốn là đối tượng luôn được ưu ái nhưng trường hợp đặc biệt sau đây thì lại là đề tài đàm tiếu của công chúng:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rạ cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Mục đích của bài ca dao hài hước này trước hết là để giải trí, nhưng đằng sau tiếng cười sảng khoái vẫn ngầm chứa một ý nghĩa châm biếm, chế giễu loại phụ nữ xấu người, xấu nết, rất khó được người lao động ở nông thôn chấp nhận.
Bài ca dao phác thảo chân dung của hai nhân vật: cô vợ và anh chồng, mỗi người một vẻ, vừa trái ngược lại vừa đồng điệu. Cặp vợ chồng kì lạ này sẽ dẫn dắt mọi người đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.
Theo quan niệm dân gian thì người phụ nữ phải đẹp về hình dáng, làn da, gương mặt và đẹp cả về nết ăn nết ở. Người con gái phải biết chăm lo cho chồng con, gia đình và biết tự chăm sóc cho bản thân mình. Nhưng ở bài ca dao này thì cô gái không được một nét nào. Trước hết, tác giả dân gian đặc tả cái lỗ mũi có một không hai của cô ta: Lỗ mũi mười tám gánh lông.
Tiếng cười vang lên khi hình ảnh phóng đại bất ngờ xuất hiện ở câu ca dao đầu, bởi vì trên đời này không thể có người phụ nữ nào như vậy. Người ta thường nói gánh cỏ, gánh rơm, gánh thóc, gánh lúa; còn ở đây, tác giả dí dỏm chơi chữ, dùng từ gánh lông kết hợp với số từ cường điệu mười tám để nhấn mạnh cái lỗ mũi kì dị của cô gái này. Quả là cô vợ có một cái mũi lạ lùng ngoài trí tưởng tượng. Ấy vậy mà có một người đàn ông hết lòng bênh vực cô ta, khẳng định đó là cái mũi quý giá, hiếm có trên đời: Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Chồng yêu thương, nâng đỡ, che chở cho vợ mình là lẽ đương nhiên ở đời, nhưng trong câu ca dao này, có phải do anh chồng quá yêu vợ hoặc sợ vợ đến mức mù quáng, mất hết tỉnh táo nên mới tâng bốc vợ mình một cách phi lí và quá đáng chăng? Bởi vì râu rồng là một hình ảnh trang trọng, đẹp đẽ, không thể đem so sánh với những thứ tầm thường như... lông mũi được.
Cô vợ đã xấu xí về hình thức lại không nết na trong hành vi, nếp sống. Hai câu ca dao tiếp theo giễu cợt sự vô ý vô tứ của cô ta trong giấc ngủ và thái độ bênh vực đến mức buồn cười của anh chồng:
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Chúng ta thử tưởng tượng: giữa đêm khuya thanh vắng, cả gia đình nhà chồng đang chìm trong giấc ngủ, bỗng rộ lên những tiếng ngáy o o của cô vợ làm cho mọi người tỉnh dậy. Chắc chắn là ai cũng sẽ thấy khó chịu và anh chồng tất nhiên là xấu hổ. Nếu chỉ có hai vợ chồng thì anh chồng cũng phải bực mình hoặc cười ra nước mắt. Thực tế cho thấy nhiều cặp vợ chồng chia tay nhau chỉ vì lý do vô ý của vợ hoặc chồng. Thế nhưng với anh chồng yêu vợ quá đỗi này thì chuyện đó không đáng kể. Tiếng ngáy ầm ĩ, vô tư của cô vợ đã được anh ta giải thích một cách xuề xoa và tếu táo là ngáy cho vui nhà. Anh chồng không góp ý, khuyên nhủ để vợ mình thay đổi tật xấu mà còn cố tình bao biện, khoả lấp.
Cô vợ không chỉ bộc lộ tật xấu ở nhà mà còn có thói quen xấu khi ra ngoài xã hội:
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Xưa nay, đi chợ ăn quà bị coi là một thói xấu đáng chê trách. Bởi vì nó xa lạ với phẩm chất chịu thương chịu khó, nhường nhịn miếng ngon miếng lành cho chồng cho con của người phụ nữ. Cô vợ trong bài ca dao này chỉ biết hưởng thụ, thoả mãn ham muốn vật chất riêng của mình. Hay ăn quà nghĩa là cô ta ăn một cách thường xuyên, đi chợ lần nào cũng ăn. Các tác giả dân gian chỉ cần điểm một thói quen Đi chợ thì hay ăn quà là đã khắc sâu được hình ảnh xấu của cô ta. Tuy thế, cô ta vẫn được chồng che chở, bênh vực bằng lí lẽ nguỵ biện là về nhà đỡ cơm. “Nhất vợ nhì trời”, nhưng bênh vợ chằm chặp như anh chồng trong bài ca dao này thì đúng là có một không hai.
Cô vợ đoảng đến mức không chăm lo cho gia đình mà cũng không biết cách tự chăm sóc bản thân:
Trên đầu những rạ cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Cô ta không hiểu rằng muốn giữ được hạnh phúc gia đình thì trước hết phải giữ gìn vẻ đẹp của mình, không nên sống buông thả, lôi thôi luộm thuộm, tự làm xấu đi hình ảnh bản thân và tỏ ra coi thường những người xung quanh. Cái răng, cái tóc là góc con người, thế mà cô ta để Trên đầu những rạ cùng rơm. Vì thế, cô ta trở thành lập dị. Duy chỉ có anh chồng mụ mị như bị ma ám, như bị bỏ bùa thì vẫn nắc nỏm khen lấy khen để là hoa thơm rắc đầu.
Có thể là ông trời đã ban phát cho cặp vợ chồng kì lạ này một điều gì đó khác thường khiến họ hoà hợp với nhau đến thế. Điệp ngữ Chồng yêu chồng bảo... lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài ca dao đã giải thích điều mà dân gian thường hay nói tới là: Yêu nhau trăm sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Hoặc: Yêu nhau củ ấu cũng tròn, Ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông...
Chỉ có tám câu ca dao với thủ pháp trào lộng thông minh, dí dỏm, với những chi tiết hí hoạ đặc sắc kết hợp khéo léo với nghệ thuật cường điệu, ngoa dụ, tăng tiến, trùng điệp,... bài ca dao đã tạo ra tiếng cười vui tươi, sảng khoái. Thái độ của mọi người đối với cô vợ là thái độ châm biếm, phê phán nhưng không ghét bỏ. Còn đối với anh chồng “ lạ đời” kia thì chỉ cảnh tỉnh bằng nụ cười chân thành, độ lượng. Bài ca dao thể hiện tâm hồn lạc quan yêu đời và triết lí nhân sinh lành mạnh của người bình dân, cho dù cuộc sống của họ còn nhiều lo toan, vất vả. Ông cha ta có câu: Thương cho roi cho vọt, Ghét cho ngọt cho bùi. Dù sao thì bài ca dao trên cũng là lời nhắc nhở chúng ta hãy nhận thức rõ ràng về cái xấu, cái tốt để vươn tới sự hoàn thiện, hoàn mĩ trong cuộc sống.