I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Sau hơn hai mươi năm chinh chiến xa quê, nay Uy-lít-xơ mới trở về nhà.

- Hơn một trăm gã đàn ông quyền quý trong vùng đang quấy nhiễu người vợ xinh đẹp và chung thuỷ của ông.

2. Thân bài:

* Cảnh Uy-lít-xơ trở về:

- Ông giả dạng là một kẻ hành khất, chen lấn vào đám đông trước cửa.

- Xin được dự cuộc thi bắn cung và đã đánh tan 108 kẻ cầu hôn láo xược.

- Ông nói là biết rõ về Uy-lít-xơ nên đã được Pê-nê-lốp cho vào trong nhà.

- Nhũ mẫu O-ri-clê nhận ra ông chủ nhờ vết sẹo ở chân bèn lên gác báo cho bà chủ biết nhưng Pê-nê-lốp không tin.

- Tê -lê -mác bực tức, bất bình trước thái độ lạnh lùng của mẹ

- Pê-nê-lốp thử bằng cách sai nhũ mẫu khiêng giường ra cho Uy-lít-xơ nằm.

- Chỉ đến khi Uy-lít-xơ nói đến bí mật của chiếc giường mà chỉ hai vợ chồng biết thì Pê-nê-lốp mới tin.

3. Kết bài:

- Cảnh gặp gỡ diễn ra thật cảm động.

- Tê-lê-mác sung sướng được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ.

BÀI LÀM

Sau hai mươi năm trời ròng rã xa quê hương, phải chịu bao gian nan, thử thách, giờ thì cha tôi đã trở về nhà. Chỉ có điều là cha giấu mình trong bộ dạng của một kẻ ăn xin rách rưới. Cha làm như vậy là để thử xem người vợ hiền yêu dấu có nhận ra được mình hay không.

Trong thời gian dài cha tôi vắng nhà, mẹ tôi phải thường xuyên đối phó với 108 gã đàn ông quyền quý trong vùng tranh nhau đến cầu hôn. Chúng xảo quyệt, hung hãn, quấy rối suốt ngày này qua tháng khác để rắp tâm ép buộc mẹ tôi và chiếm đoạt tài sản của gia đình tôi. Pê-nê-lốp, người đàn bà thông minh, xinh đẹp là mẹ của tôi, luôn phải nghĩ ra trăm phương ngàn kế để kéo dài thời gian, hi vọng cha tôi sẽ trở về.

Vì nói là có biết một số điều về Uy-lit-xơ nên gã hành khất - tức là cha tôi đã được mẹ tôi cho phép vào nhà và ở lại để kể cho mẹ tôi nghe những điều về người chồng yêu quý mà mẹ đang mòn mỏi đợi trông. Hôm sau, mẹ tôi tổ chức cuộc thi bắn cung và ra điều kiện nếu ai giương được cây cung của Uy lít-xơ thì sẽ lấy làm chồng. Hàng trăm kẻ quý tộc không kẻ nào nâng nổi. Gã hành khất xin tham dự và đã chiến thắng. Tôi nhận ra cha. Với cây cung trong tay, cha con tôi đánh đuổi, tiêu diệt những tên cầu hôn quấy nhiễu và lũ đầy tớ phản chủ. Bà nhũ mẫu O-ri-clê lên gác báo tin là Uy-lit-xơ đã trở về nhưng mẹ tôi không tin mà bảo rằng bà chớ vội vui mừng vì có lẽ người đánh tan lũ cầu hôn láo xược là một vị thần nào đó. Còn Uy-lít-xơ chồng mình thì không còn hi vọng trở về, vì chàng đã chết.

Nhũ mẫu vẫn một mực khẳng định là cha tôi đang ở dưới nhà và giục mẹ tôi hãy mau mau xuống đón mừng. Bà còn nói rõ cả dấu hiệu khó quên là cái sẹo ở chân cha tôi, dấu vết một lần ông đi săn bị nanh trắng của con lợn lòi húc vào. Mẹ tôi vẫn chưa tin, quay sang bảo nhũ mẫu hãy cùng xuống nhà để xem xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng.

Xuống đến nơi, mẹ tôi bước qua ngưỡng cửa bằng đá rồi đến ngồi trước mặt cha tôi, trong khi ông tựa lưng vào cái cột, mắt nhìn xuống đất, hồi hộp xem người vợ cao quý sẽ nói gì khi nhận ra chồng mình. Mẹ tôi vẫn ngồi lặng thinh, vẻ mặt sửng sốt, lúc thì đăm đăm nhìn chồng, lúc lại như là không nhận ra người chồng yêu quý trong bộ quần áo rách mướp của kẻ ăn xin.

Không nén nổi tức giận, tôi buột miệng trách sao mẹ lại tàn nhẫn như thế. Mẹ không hỏi han, cũng chẳng đến bên cha tôi vồn vã chuyện trò. Tôi thầm nghĩ chắc trên thế gian này chẳng có người vợ nào sắt đá đến nỗi chồng đi xa biền biệt hai mươi năm, trải qua bao nỗi gian lao, bây giờ mới trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng như vậy.

Mẹ tôi không giận mà dịu dàng đáp: “Tê-lê-mác con ơi, lòng mẹ kinh ngạc quá chừng! Mẹ không sao nói được một lời, mẹ cũng không thể hỏi han, không thể nhìn thẳng vào mặt người ấy. Nếu quả thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ mới trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được ra nhau một cách dễ dàng, vì cha mẹ có những bí mật riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết”.

Nghe mẹ tôi nói vậy, cha tôi nhẫn nại mỉm cười và nói với tôi: “Tê -lê-mác con! Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng nhận ra cha, chắc chắn như vậy. Hiện giờ, cha còn bẩn thỉu, rách rưới nên mẹ con khinh cha, chưa nói: “Đích thị là chàng rồi!”. Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xem nên xử trí việc này thế nào cho ổn thoả. Từ trước tới nay, nếu có ai đó giết chết một người trong xứ sở, chỉ một người thôi và dù kẻ bị giết chẳng có ai báo thù cho nữa, thì người ấy cũng phải rời bỏ cha mẹ, quê hương mà trốn đi. Huống hồ chúng ta đây, chúng ta đã hạ cả thành luỹ bảo vệ đô thị này, giết hàng trăm chàng trai của các gia đình quyền quý nhất. Tình huống ấy, cha khuyên con nên suy nghĩ”.

Tôi kính cẩn thưa rằng mọi việc xin cha cứ định liệu, vì xưa nay, cha vốn là người sáng suốt. Tôi cũng hứa là sẽ hết lòng phụ tá cha tôi.

Sau đó, cha bảo mọi người đi tắm rồi mặc quần áo đẹp vào, nhảy múa, ca hát để người ngoài lầm tưởng là nhà có đám cưới và dặn tất cả hãy giữ kín mọi chuyện cho đến khi hai cha con tôi về đến trang trại của ông nội. Sắp đặt xong, cha cũng đi tắm.

Lát sau, từ phòng tắm bước ra, trông cha uy nghi, đẹp đẽ như một vị thần. Trở về chỗ cũ, cha nói với mẹ rằng: “Khốn khổ ! Hẳn là các vị thần linh trên núi Ơ-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối. Vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở !”. Rồi cha tôi bảo nhũ mẫu hãy kê cho ông một chiếc giường để ông ngủ một mình như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực vợ ông là làm bằng sắt.

Mẹ tôi thận trọng đáp: “Khốn khổ! Tôi không có ý coi thường, coi khinh ngài, cũng không ngạc nhiên đến rối trí đâu! Tôi biết rất rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, Ơ-ri-clê! Già hãy cho khênh chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường!”.

Mẹ tôi nói vậy là để thử cha tôi. Quả nhiên, cha tôi bỗng giật mình hỏi ngay: “Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường của tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này”. Rồi cha tôi kể chi tiết, tỉ mỉ về đặc điểm của chiếc giường khác thường ấy. Bí mật này, ngoài cha và mẹ tôi ra, chỉ có một thị tì của mẹ được biết.

Nghe vậy, mẹ tôi bủn rủn cả chân tay vì cha tôi đã tả đúng mười mươi sự thật. Mẹ bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ và hôn lên trán người chồng yêu quý mà nói rằng:

- Uy-lít-xơ! Xin chàng chớ giận thiếp, vì xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan! Ôi! Thần linh đã dành cho hai ta một số phận xiết bao cay đắng vì ghen ghét, không muốn chúng ta được sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà thiếp không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác... Giờ đây, chàng đã đưa ra những chứng cứ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp và Ác-tô-rít, người thị tì của cha thiếp cho đi theo khi thiếp về đây và sau đó giữ cửa gian phòng tường kiên cố của chúng ta. Vì vậy, chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi.

Giọng nói chân thành của mẹ tôi khiến cha tôi vô cùng cảm động. Cha ôm lấy người vợ xiết bao thương yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình mà khóc dầm dề.

Được gặp lại chồng sau hai mươi năm mòn mỏi đợi chờ, mẹ tôi sung sướng vô cùng! Mẹ nhìn ngắm cha không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của mẹ cứ ôm chặt cổ cha không muốn rời. Cảnh tượng đó khiến trái tim tôi - đứa con trai duy nhất của hai người - cứ thổn thức mãi không thôi vì xúc động, vì hạnh phúc. Từ nay, tôi sẽ luôn được sống trong sự yêu thương, che chở của mẹ, của cha.