I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam phong phú về đề tài và được chia làm hai loại: truyện khôi hài và truyện trào phúng.

- Truyện khôi hài có mục đích giải trí, mua vui là chính nhưng vẫn chứa đựng ý nghĩa giáo dục. Truyện trào phúng có mục đích phê phán, đả kích các thói hư tật xấu của giai cấp thống trị và cả trong nội bộ dân chúng.

- Nhưng nó phải bằng hai mày và Tam đại con gà là hai truyện cười khá tiêu biểu, nội dung chế giễu lũ quan lại tham lam và loại thầy đồ dốt nát.

2. Thân bài:

* Phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày.

+ Mâu thuẫn truyện: Phát sinh khi lí trưởng đột ngột tuyên bố đánh Cải mươi roi. (Trong khi hắn đã nhận tiền hối lộ của anh ta để xử cho thắng kiện).

- Cải kêu oan, giơ tay ra dấu là đã đút tiền nhưng lí trưởng vẫn ra dấu là : Tao biết mày phải... nhưng nó (Ngô) lại phải bằng hai mày.

+ Chi tiết gây cười:

- Hành động của anh chàng Cải và hành động của lí trưởng: Cải vội xoè năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thấy lí, khẽ bẩm. Thầy lí cũng xoè năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt.

- Ý nghĩa của hành động: Cải nhắc khéo bằng cách ra dấu là đã đút cho thầy lí năm quan. Thầy lí hiểu và cũng ra dấu lại là thầy không quên, nhưng Ngô lại đút cho thấy những mười quan.

- Cải cứ tưởng mình hối lộ cho lí trưởng thì mình sẽ thắng mà không biết là Ngô cũng hối lộ và nhiều gấp đôi.

- Câu kết luận của lí trưởng khá bất ngờ và vô lí đến mức buồn cười : ... Mày phải... nhưng nó phải bằng hai mày. Lí trưởng đã biến phải, trái (trừu tượng), thành cụ thể (phải bằng hai ). Vậy thì phải đồng nghĩa với việc đút lót tiền cho hắn. Ai đút nhiều là phải nhiều, ai đút ít thì phải ít. Ai phải nhiều (đút lót nhiều) thì sẽ thắng kiện. Ý nghĩa tố cáo, phê phán thói ăn của đút nằm trong chính câu nói của lí trưởng.

* Phân tích truyện Tam đại con gà.

+ Hình ảnh “thầy đồ dởm" dốt “đặc cán mai" mà cố tình giấu dốt.

- Mâu thuẫn truyện: Anh chàng dốt nát mà lại liều lĩnh làm nghề dạy học là nghề đòi hỏi phải có sự hiểu biết và mô phạm.

- Chi tiết gây cười: Thầy không nhớ nổi mặt chữ kê là gà. Trò hỏi dồn, thầy cuống lên giải thích liều là chữ dủ dỉ. Thầy khấn thổ công, thổ công cũng đồng ý đó là chữ dủ dỉ. Thầy yên tâm bắt trò đọc to lên. Chủ nhà thấy lạ bèn hỏi, thầy giải thích loanh quanh để giấu dốt: Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà.

- Ý nghĩa truyện: Chế giễu thói giấu dốt là thói xấu nhiều người mắc phải. Chế giễu những “thầy đồ dốt” mà lại dám liều lĩnh dạy chữ nghĩa cho thiên hạ.

3. Kết bài:

- Hai truyện phân tích ở trên tiêu biểu cho truyện cười dân gian Việt Nam.

- Cả hai truyện đều chứa đựng những bài học thâm thuý và bổ ích thông qua nghệ thuật gây cười đặc sắc và hấp dẫn.

II. BÀI LÀM

Kho tàng truyện cười Việt Nam cực kì phong phú về đề tài, được chia làm hai loại là truyện khôi hài và truyện trào phúng. Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí là chính, tuy vậy nó vẫn có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng. Truyện trào phúng có mục đích đả kích, phê phán, đối tượng phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội phong kiến xưa kia. Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu thường thấy trong cuộc sống. Nhưng nó phải bằng hai mày và Tam đại con gà là truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán đám quan lại tham nhũng và những thầy đồ dốt nát.

Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày.

Cốt truyện đơn giản: Hai người hàng xóm đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Tuy vậy, truyện được xây dựng thành một màn hài kịch hoàn hảo với hai yếu tố then chốt dẫn tới sự hình thành và phát triển mâu thuẫn. Đó là lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi và hai đương sự Ngô, Cải, ai cũng muốn giành phần thắng nên đều đút lót cho lí trưởng.

Mâu thuẫn bắt đầu phát sinh khi lí trưởng đột ngột tuyên bố đánh phạt Cải mười roi. Buồn cười ở chỗ là hai nhân vật một bên thì chủ động, còn bên kia hoàn toàn bị động. Một bên cứ kết án, một bên xin xét lại. Động tác và lời nói của hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Màn kịch khép lại bằng câu kết luận chắc nịch của lí trưởng: Tao biết mày phải... nhưng nó lại phải... bằng hai mày. Lời nói ấy đã vạch trần thủ đoạn của viên lí trưởng mà dân gian đã chỉ ra bằng câu thành ngữ: đòn xóc hai đầu.

Lí trưởng là người đứng đầu trông coi việc hành chính trong làng. Viên lí trưởng trong truyện nổi tiếng xử kiện giỏi. Song cái tiếng tăm ấy lại hoàn toàn đối lập với thực chất bên trong. Ngô và Cải đều phải lo đút lót trước cho lí trưởng. Sự công bằng, lẽ phải - trái, không có ý nghĩa gì ở chốn công đường khi lí trưởng xử kiện. Lẽ phải ở đây thuộc về kẻ nhiều tiền, nhiều lễ vật lo lót. Đồng tiền đã ngự trị chốn công đường, bất chấp công lí. Đúng là : Nén bạc đâm toạc tờ giấy và Cải, Ngô là các nhân vật bi hài, vừa đáng trách, đáng cười, vừa đáng thương.

Thủ pháp trào lộng của truyện được thể hiện bằng những cử chỉ, hành động, lời nói gây cười của các nhân vật. Cử chỉ, hành động của các nhân vật trong truyện này giống như cử chỉ và hành động của các nhân vật trong kịch câm, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Khi bị lí trưởng ra lệnh đánh đòn, Cải vội xoè năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thấy lí, khẽ bẩm. Cử chỉ ấy như muốn nhắc khéo lí trưởng về số tiền mà Cải đã lo lót trước và anh ta trông đợi sự “nhớ ra” của lí trưởng về lời cam kết rằng lẽ phải sẽ thuộc về mình. Thầy lí cũng xoè năm ngón tay trái úp lên trên năm tay mặt, cử chỉ ấy ngầm thông báo với Cải rằng “ lẽ phải” của thằng Ngô nhiều gấp đôi, nên đương nhiên, phần thắng sẽ thuộc về hắn.

Lẽ phải (trừu tượng) được tính bằng năm ngón tay (cụ thể), hai lần lẽ phải được tính bằng mười ngón tay. Điều thú vị mà tác giả dân gian dành cho người đọc là: ngón tay của Cải trở thành “kí hiệu” của tiền tệ và hai bàn tay úp vào nhau của quan cũng là “kí hiệu” biểu thị cho lượng tiền đút lót của Ngô..

Truyện còn dùng hình thức chơi chữ để gây cười. Từ phải trong truyện này đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, người đúng, đối lập với cái sai, người sai. Nghĩa thứ hai chỉ điều bắt buộc, nhất thiết phải có, tức là mức tiền lo lót. Lời lí trưởng: Tao biết mày phải... nhưng nó lại phải... bằng hai mày! lập lờ cả hai nghĩa ấy. Không phải ngẫu nhiên, vế thứ hai trong lời thầy lí lại được dùng để đặt tên cho truyện này.

Ở đây, ta thấy ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ động tác thống nhất với nhau, có giá trị ngang nhau. Ngôn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những người có mặt cùng nghe. Ngôn ngữ bằng động tác là thứ ngôn ngữ “bí mật”, chỉ có người trong cuộc (thầy lí và Cải) mới hiểu được. Hai thứ ngôn ngữ ấy làm rõ nghĩa cho nhau để chỉ ra thực chất của sự nổi tiếng xử kiện giỏi của viên lí trưởng nọ.

Truyện rất ngắn, kết thúc bất ngờ nhưng nó nói đủ những điều muốn nói và tiếng cười vừa giòn giã, thâm thuý cũng đồng loạt cất lên.

Truyện Tam đại con gà.

Nhân vật chính trong truyện Tam đại con gà là anh học trò dốt đặc mà lại dám làm thầy đồ. Các nhân vật khác chỉ làm nền cho nhân vật chính hoạt động. Điểm độc đáo của truyện là tác giả dân gian tạo ra tình huống đặc biệt để nhân vật thầy đồ tự bộc lộ “trình độ” của mình.

Thông thường, cái dốt do thất học được mọi người dễ dàng thông cảm, còn cái dốt của học trò thì chỉ đáng chê trách, chứ không đáng cười. Người xưa nói: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”, nhưng anh học trò dốt lại đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt. Cả gan hơn, anh ta dám làm nghề “gõ đầu trẻ”, mà nghề này muốn dạy một thì phải biết mười. Thói xấu ấy của anh ta không dừng ở lời nói, mà đã thành hành động.

Truyện Tam đại con gà không hướng tiếng cười vào hành động “ngược đời” và liều lĩnh ấy, mặc dù nó là nguyên nhân gây ra tiếng cười. Cái bị phanh phui, phê phán chính là thói “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”.

Các tình huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên khi tình huống cuối cùng khép lại.

Tình huống thứ nhất nói về trình độ của thầy đồ. Giờ dạy học, thầy gặp chữ kê là gà nhưng thấy không nhận ra vì nó có nhiều nét rắc rối, gần giống với chữ tước là chim sẻ. Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống lên đành nói liều: Dủ dỉ là con dù dì.

Các tác giả dân gian cố tình để thầy bẽ mặt với chữ kê. Tuy có nhiều nét nhưng chữ này không khó. Sách Tam tự kinh dùng cho trẻ học vỡ lòng chữ Hán, phần giải nghĩa rõ ràng, lại có vần và rất dễ thuộc, vậy mà thầy mù tịt.

Học trò hồn nhiên hỏi gấp, vô tình dồn thầy vào chỗ bí. Thầy sẽ chẳng còn giữ được cái sai của mình nếu không trả lời được. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì, quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại. Dủ dỉ đâu phải chữ Hán? Và trên đời làm gì có con vật nào tên là dủ dỉ, dù dì? Như vậy là thầy vừa dốt kiến thức sách vở, lại vừa dốt kiến thức thực tế. Người đọc đọc đến đây phải bật cười ngạc nhiên trước “trình độ” của “ông thầy” kì quặc này.

Tình huống thứ hai là thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ. Thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ bí và giấu nhẹm cái dốt của mình. Tạm thời, sự láu cả ấy cứu được thầy nhưng thực ra nó càng đẩy nhanh thầy vào ngõ cụt.

Tình huống thứ ba là thầy khấn hỏi Thổ Công của gia chủ để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì" không. Lẽ ra, không biết thì thầy phải tìm sách mà học, tìm người mà hỏi. Nhưng truyện không có cái lẽ ra ấy. Tình huống này làm cho mâu thuẫn phát triển lên tới điểm đỉnh. Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc. Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện “khoèo” cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt. Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đồ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì(!?). Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm... bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì- Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần.

Tình huống thứ tư nằm ở phần kết thúc truyện. Khi thầy đồ bộc lộ đến tận cùng sự ngoan cố của thói giấu dốt thì cũng là lúc tiếng cười bật lên. Sự tin tưởng mù quáng vào thần thánh đã đưa thầy đến cuộc chạm trán bất ngờ với chủ nhà. Cái dốt nát của thầy đã bị lật tẩy. Lúc này, thầy đã tự nhận thức được sự dốt nát của mình và thần trách Thổ Công: Mình đã dốt, Thổ Công nhà nó cũng dốt nữa.

Vốn “vụng chèo khéo chống”, thầy vẫn cố gượng gạo giấu dốt bằng cách giải nghĩa quanh quẩn rất buồn cười. Không ngờ chữ dủ dỉ vô nghĩa mà lại được thầy tìm ra lắm nghĩa đến thế (!). Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng cười trào phúng hả hê. Truyện khai thác cả vần điệu, cả yếu tố thứ bậc trong tam đại con gà mà chế giễu, chọc cười: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của truyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt.

Câu chuyện ngắn gọn chỉ xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ có tính cách hẳn hoi. Đó là một con người “dốt lòi chuôi” nhưng lại hay “lên mặt văn hay chữ tốt” và luôn cố tìm cách giấu dốt bằng thói ba hoa.

Đặc điểm của truyện này là mâu thuẫn trái tự nhiên trong nhân vật chính được nói ra ngay từ đầu câu chuyện. Bản chất “dốt nát” của thầy đồ đã được khẳng định. Toàn bộ câu chuyện chứng minh cho định đề này. Tuy nhiên, khi thể hiện bản chất của nhân vật thầy đồ, vấn đề có khác đi một chút. Thầy đồ dốt đến mức những chữ tối thiểu trong sách dùng để dạy cho trẻ con mà cũng không phân biệt nổi. Dốt nhưng lại tự cho là mình giỏi (sau khi khấn Thổ Công). Khi bị người khác chỉ ra cái dốt thì ngầm tự nhận là mình dốt nhưng vẫn tìm cách chống chế bằng được. Như vậy, mâu thuẫn trái tự nhiên ở đây là mẫu thuẫn giữa cái dốt và sự giấu dốt. Thầy càng ra sức che đậy thì bản chất dốt nát càng phơi bày và thầy tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.

Trong toàn bộ câu chuyện, cái dốt của thầy đồ bị lộ dần ra khi lâm vào các tình huống khó xử nhưng thầy đã cố che giấu một cách phi lí. Vì thế, thầy càng che giấu thì bản chất dốt nát càng bị phơi bày. Cuối cùng, thầy đành tìm một lối thoát phi lí hơn. Nhưng thầy càng “lấp liếm” thì càng trở nên thảm hại vì ai cũng biết rằng đó chỉ là “ lí sự cùn” chứ không phải là một cách chống chế thông minh có thể chấp nhận được. Ở đây, ta thấy có sự tăng tiến về mức độ phi lí trong hành động và lời nói của thầy đồ. Đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong truyện cười dân gian.

Tam đại con gà phê phán thói giấu dốt - một tật xấu có thật và khá phổ biến trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa phê phán của truyện toát lên từ hành động tức cười của một anh thầy đồ “dốt đặc cán mai” mà lại cố tình giấu dốt, nhưng càng cố tình che giấu thì sự dốt nát lại càng lộ ra. Anh học trò dốt nát đến thế mà lại cả gan đi làm thầy dạy trẻ thì tác hại quả là khôn lường.

Truyện cười này cùng nhiều truyện cười khác đã lật tẩy thực chất của không ít hạng “thầy đồ dốt” trong xã hội phong kiến ngày xưa. Và tất nhiên, truyện không chỉ mua vui và phê phán thói giấu dốt của các thầy đồ mà nó còn nhắc nhở, cảnh tỉnh những ai không nhiều thì ít cũng mắc phải căn bệnh ấy.

Hai truyện phân tích ở trên là những truyện hài hước trào phúng khá tiêu biểu cho truyện cười dân gian Việt Nam. Cả hai truyện đều chứa đựng những bài học nhân sinh thâm thúy và bổ ích thông qua nghệ thuật gây cười bằng cử chỉ, lời nói, tình huống đáng cười và yếu tố bất ngờ được sử dụng rất đắc địa. Nội dung hai truyện cười này là biểu hiện sinh động của trí thông minh, tính lạc quan và tinh thần đấu tranh của nhân dân lao động đối với những thói xấu trong xã hội để cuộc sống mỗi ngày tốt đẹp hơn.