I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ là một truyền thuyết nổi tiếng gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

- Xung quanh các nhân vật có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau.

- Các tác giả dân gian bày tỏ thái độ yêu ghét rõ ràng đối với từng nhân vật.

2. Thân bài:

* Đối với An Dương Vương:

- Khẳng định công lao to lớn của ông (lúc đầu) trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

(Qua chi tiết xây Loa Thành, chế nỏ, đánh bại quân xâm lược của Triệu Đà lần thứ nhất)

- Phê phán thái độ chủ quan, mất cảnh giác, dẫn đến thảm hoạ mất nước.

(Qua các chi tiết: Dễ dàng nhận lời cầu hoà, cầu hôn của kẻ thù; cho Trọng Thuỷ lấy Mị Châu và ở rể trong thành. Cậy có nỏ thần, giặc tiến sát vẫn ung dung ngồi đánh cờ)

- Thương Xót An Dương Vương, không nỡ phủ nhận vai trò của ông. (Qua chi tiết: Rùa Vàng hiện ra, đưa ông xuống thuỷ cung.)

* Đối với Mị Châu:

- Nghiêm khắc lên án hành động vô tình phản quốc của nàng. (Qua lời khẳng định của Rùa Vàng, gọi Mị Châu là giặc)

- Thương cảm cho kết cục bi thảm của mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ. (Qua hình ảnh ngọc trai - giếng nước)

- Độ lượng, bao dung, làm giảm nhẹ tội của Mị Châu.

(Qua chi tiết lời cầu xin trước khi chết của nàng ứng nghiệm, giải toả nỗi oan ghê gớm của nàng)

* Đối với Trọng Thuỷ:

- Căm ghét sự giả dối và phản trắc của kẻ do thám đã cố tìm mọi cách để thực hiện âm mưu đen tối của Triệu Đà.

(Qua chi tiết Trọng Thuỷ nhất nhất tuân lệnh và tiếp tay cho cha xâm lược Âu Lạc. Lợi dụng tình yêu trong trắng của Mị Châu để đạt mục đích xấu xa: đánh cắp lẫy thần. Khôn khéo hỏi Mị Châu cách tìm nhau khi xảy ra chiến tranh giữa hai nước)

- Thông cảm phần nào khi thấy Trọng Thuỷ cũng chỉ là nạn nhân của tham vọng xâm lược phi nghĩa của Triệu Đà.

(Qua hình ảnh ngọc trai - giếng nước)

3. Kết bài:

- Quan điểm yêu ghét của người xưa rất rõ ràng, minh bạch.

- Quan điểm đó được thể hiện qua những hình tượng nghệ thuật tuy đậm chất hoang đường nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu xa, là những bài học có giá trị muôn đời.

II. BÀI LÀM

Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ là một truyền thuyết nổi tiếng, gắn liền với những biến cố lịch sử to lớn của đất nước ta thời kì Âu Lạc.

Xung quanh các nhân vật có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược. Chúng ta thử phân tích xem tình cảm và suy nghĩ của người xưa đối với mỗi nhân vật trong truyện như thế nào?

Trước hết là An Dương Vương. Sau khi kế tục sự nghiệp dựng nước của 18 đời Hùng Vương, An Dương Vương Thục Phán đã đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc và dời đô từ Phong Châu về đất Phong Khê (tức vùng Đông Anh, ngoại thành Hà Nội ngày nay).

An Dương Vương là một nhân vật anh hùng nhưng cuộc đời của ông lại kết thúc bằng một bi kịch. Ở cương vị lãnh đạo tối cao của đất nước, ông đã ngày đêm suy nghĩ để tìm cách xây dựng thành Cổ Loa. Việc xây thành đắp luỹ gặp vô vàn khó khăn, gian khổ. Truyện kể rằng, thành cứ ngày xây đêm lại đổ, nguyên nhân là do lũ yêu quái quấy phá. An Dương Vương phải lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Được sử Thanh Giang giúp đỡ, thành mới xây xong.

Tác giả dân gian đã hình tượng hoá những khó khăn trở ngại mà An Dương Vương gặp phải trong quá trình xây thành để truyền thuyết đậm chất hoang đường, kì ảo. Hình ảnh cụ già từ phương Đông đi tới trước cổng thành nói với An Dương Vương là sẽ có sứ Thanh Giang tới giúp; hình ảnh Rùa Vàng nói sõi tiếng người, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần và giúp An Dương Vương xây thành chỉ trong nửa tháng đã xong cũng chính là sản phẩm tưởng tượng tuyệt đẹp của người xưa để thần thánh hoá trí tuệ, tài năng của những bề tôi xuất sắc đã hỗ trợ nhà vua khắc phục bao trở ngại tưởng chừng khó vượt qua.

Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành, hay còn gọi là Quỷ Long Thành. Điều đó cho thấy công lao to lớn của An Dương Vương đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Vốn có tầm nhìn xa trông rộng nên xây xong thành, An Dương Vương nghĩ ngay đến việc giữ nước. Nhà vua hỏi Rùa Vàng: “... Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng đáp: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh Trời, con người có thể tự đức mà kéo dài thời vận...”. Rùa Vàng tháo vuốt đưa cho nhà vua mà nói: “Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”.

Nghe lời Rùa Vàng, An Dương Vương sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt Rùa Vàng làm lẫy, gọi là “Linh quang Kim Quy thần cơ”, bắn một phát chết hàng vạn giặc. Vì thế mà Triệu Đà ở phương Bắc kéo quân sang xâm lược đã thua lớn, phải cầu hoà.

Cậy có nỏ thần, An Dương Vương sinh ra kiêu ngạo, chủ quan, khinh địch. Trong khi đó, mưu trí và tỉnh táo là những điều kiện quan trọng không thể thiếu đối với người lãnh đạo tối cao của một đất nước. Từ kiêu ngạo, chủ quan dẫn đến mất cảnh giác chẳng bao xa.

Quả nhiên, An Dương Vương đã mắc mưu sâu của Triệu Đà mà không biết. Nhà vua dễ dàng chấp thuận lời cầu hoà, rồi cầu hôn cho con trai của Triệu Đà, kẻ thù không đội trời chung mà ông đã phải đương đầu cách đây chưa lâu. Đó là sai lầm ghê gớm nhất. Mất tỉnh táo, An Dương Vương liên tục mắc sai lầm và ngày càng nghiêm trọng. Ông không chỉ gả con gái yêu cho con trai kẻ thù mà còn để Trọng Thuỷ vào ở rể trong thành. Hành động này của ông có khác chi nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà. Ông không biết rằng tên do thám nguy hiểm đang đội lốt một hoàng tử hào hoa, một chàng rể dễ mến. Sai lầm của ông là tiền đề dẫn đến những sai lầm tai hại của Mị Châu sau này.

Có lẽ tác giả dân gian đã rất thâm thúy và tinh tế khi chọn những chi tiết đặc tả An Dương Vương lúc nghe tin Triệu Đà cất quân sang xâm lược lần thứ hai : Vua cậy có nỏ thần, vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng :“ Đà không sợ nỏ thần sao?". An Dương Vương không thể ngờ Trọng Thuỷ dám đánh tráo lẫy thần nên vẫn ung dung chờ giặc. Đáng giận và cũng đáng thương thay!

Quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa rồi cùng nhau chạy về phương Nam. Rõ ràng, đang từ vị trí vinh quang của người chiến thắng, An Dương Vương đã rơi vào tình thế thảm hại của kẻ chiến bại. Đến bờ biển, cùng đường tắc lối, An Dương Vương ngửa mặt than: Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu! Chi tiết này phản ảnh rất rõ sự bế tắc trong nhận thức của An Dương Vương. Ông đã say sưa với chiến thắng, ỷ lại vào thần linh mà quên đi lời dặn của Rùa Vàng lúc chia tay: Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh Trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. An Dương Vương đã không tu đức - cái đức của người gánh trên vai trách nhiệm nặng nề đối với sự tồn vong của sơn hà, xã tắc, cho nên ông đã bị tước mất cái thế trời cho, đất chở.

Cái kết cục bi thảm nhà tan, nước mất đương nhiên lỗi lớn là ở An Dương Vương. Lúc lâm vào thế cùng đường, ông kêu lớn: Trời hại ta! nhưng thực chất là chính ông và thêm nữa là cô con gái yêu quý đã vô tình làm hại ông. Ông cầu cứu đến Rùa Vàng. Rùa Vàng hiện ra và thét lớn: Kẻ ngồi sau lưng ngựa chính là giặc đó!. Tiếng thét của Rùa Vàng thức tỉnh An Dương Vương. Ông hiểu ra ngay nguyên cớ của thảm hoạ mất nước nên đành phải chém chết Mị Châu. Tác giả dân gian đã thể hiện qua tiếng thét ấy sự bất bình, phẫn nộ của nhân dân đối với sai lầm không thể tha thứ của cha con An Dương Vương. Cuối cùng, Rùa Vàng cũng cứu ông. Cầm sừng tê bảy tấc, An Dương Vương được Rùa Vàng rẽ nước dẫn xuống thuỷ cung. Như vậy là thái độ của nhân dân rất phân minh, rạch ròi trước công và tội của người đứng đầu đất nước Âu Lạc thời bấy giờ. Thất bại của An Dương Vương là bài học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc tinh thần cảnh giác trong lịch sử dựng nước và giữ nước.

Còn Mị Châu, tội của nàng là vô tình tiếp tay cho giặc. Người con gái ngây thơ, xinh đẹp ấy một lòng một dạ yêu chồng, tin chồng, chỉ thuận theo tình cảm vợ chồng mà quên đi nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước. Nàng dễ dàng đáp ứng yêu cầu của Trọng Thuỷ là đòi xem tận mắt nỏ thần mà không hề nghĩ rằng đó là báu vật, là bí mật quốc gia, liên quan đến sự mất còn của đất nước. Nàng lại càng không thể phát hiện ra Trọng Thuỷ là một tên do thám nguy hiểm, cho nên đã đặt vào chồng trọn vẹn tình cảm yêu thương, tin tưởng.

Lấy được lấy thần, Trọng Thuỷ vin cớ xin về nước thăm cha và khi chia tay đã nói một câu đầy ẩn ý: ... nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu? thì Mị Châu vẫn hồn nhiên đáp: Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể sẽ cứu được nhau. Bi kịch mất nước đã xảy ra ngay sau đó. Hai cha con An Dương Vương phải lên ngựa chạy trốn mà Mị Châu vẫn không nhận thức được tình thế hiểm nguy cho tính mạng của vua cha và bản thân, vẫn giữ đúng lời hứa với Trọng Thuỷ là rắc lông ngỗng làm dấu. Hành động ấy của nàng vô tình chỉ đường dẫn lối cho kẻ thù truy sát An Dương Vương. Thần Kim Quy tức Rùa Vàng kết tội Mị Châu là giặc quả không sai chút nào, dẫu nàng hoàn toàn không biết rằng những hành động của mình là trọng tội.

Có lẽ vì thông cảm và thương xót Mị Châu phần nào nên tác giả dân đã để cho Mị Châu trước khi bị cha chém đầu đã tỉnh ngộ, nhận ra là mình bị lừa dối, bị phản bội: Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù. Chi tiết máu Mị Châu chảy xuống biển, một loài trai ăn phải sinh ra ngọc quý và hình ảnh xác nàng biến thành ngọc thạch phản ánh thái độ vừa nghiêm khắc, vừa bao dung của người xưa đối với cô công chúa tội nghiệp, đáng thương, đồng thời cũng là lời nhắc nhở các thế hệ trẻ muôn đời sau hãy đừng vì tình riêng mà quên đi nghĩa vụ công dân đối với đất nước và dân tộc.

Nhân vật thứ ba là nhân vật Trọng Thuỷ - kẻ vừa đáng bị lên án vì giữ vai trò tích cực giúp cho Triệu Đà thực hiện âm mưu xâm lược nhưng cũng vừa là nạn nhân của chính cuộc chiến tranh phi nghĩa đó. Xét cho cùng, Trọng Thuỷ đã bị vua cha biến thành một công cụ, một phương tiện hữu hiệu, một lực lượng phá hoại từ bên trong để làm tê liệt đối phương. Lúc đầu, Trọng Thuỷ nhận nhiệm vụ của một tên do thám đội lốt chàng rể hào hoa, phong nhã, rất biết làm vui lòng cha vợ. Sau này, có thể Trọng Thuỷ dần dần yêu mến và say đắm Mị Châu, nhưng chưa lúc nào quên nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mà Triệu Đà giao phó. Thời gian ở rể trong thành Cổ Loa, Trọng Thuỷ kín đáo thăm dò tình hình, lực lượng và bí mật vũ khỉ kì diệu là nỏ thần của An Dương Vương để giúp Triệu Đà thực hiện âm mưu thôn tính nước Âu Lạc. Mục đích ban đầu đặt ra là lấy cắp lẫy thần Kim Quy đã được Trọng Thuỷ tìm mọi cách thực hiện đến cùng.

Lấy được lẫy thần, Trọng Thuỷ vội vàng kiếm cớ về nước, cùng Triệu Đà dẫn quân sang đánh Âu Lạc. Đúng như dự kiến của Triệu Đà, An Dương Vương phải bỏ thành mà chạy. Trọng Thuỷ đã hình dung ra trước mọi chuyện nên mới có câu nói đầy ẩn ý lúc chia tay với Mị Châu. Rồi cứ theo dấu lông ngỗng mà truy đuổi đến bờ biển, Trọng Thuỷ không thấy bóng dáng An Dương Vương, chỉ thấy xác người vợ trẻ chết gục bên vũng máu. Có lẽ cái chết thê thảm của Mị Châu là lời cảnh cáo dữ dội nhất, đanh thép nhất đối với Trọng Thuỷ. Nếu thật sự Trọng Thuỷ yêu nàng thì giờ đây, oan hồn nàng cũng không chấp nhận tình yêu ấy, vì trước khi chết, nàng đã gọi chồng mình là kẻ lừa dối. Trọng Thuỷ không thể biện bạch, thanh minh về những hành động ám muội đáng lên án của mình, cho nên các tác giả dân gian đã dành cho Trọng Thuỷ cái chết không kém phần bi thảm: lao đầu xuống giếng nước Loa Thành tự tử sau khi đã chôn cất người vợ trẻ phải chết oan vì tội lỗi của chính mình gây ra. Hình ảnh ngọc trai - giếng nước ở cuối truyện chỉ làm giảm nhẹ phần nào bi kịch của đôi lứa trai tài gái sắc - nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa mà thôi.

Quan điểm yêu ghét của người xưa được thể hiện thật minh bạch, rõ ràng. Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ có sức sống lâu bền chính là nhờ những bài học nhân sinh sâu sắc, quý giá có giá trị muôn đời mà các tác giả dân gian đã gửi gắm vào đó.