I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) là một danh tướng đời Trần, được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tin dùng.

- Ông cùng một số nhân vật kiệt xuất khác lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần vào chiến thắng oanh liệt đánh bại quân xâm lược Nguyên - Mông.

- Bài thơ Thuật hoài được Phạm Ngũ Lão sáng tác vào cuối năm 1284, nội dung bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ là thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

2. Thân bài:

* Phân tích bài thơ: Vẻ đẹp của con người có lí tưởng, nhân cách cao cả, mang khí thế hào hùng của thời đại.

+ Hai câu thơ đầu:

Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.

(Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.)

- Ở câu thứ nhất, nhà thơ khắc hoạ vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của người chiến binh quả cảm, luôn ở tư thế sẵn sàng tấn công kẻ thù để bảo vệ giang sơn. Đó là tư thế của chính nghĩa, của chiến thắng. (Dẫn chứng).

- Có thể coi đây là hình tượng chủ đạo tượng trưng cho dân tộc Đại Việt bất khuất, quật cường. Ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước toả sáng từ hình tượng hào hùng ấy.

- Ở câu thứ hai, tác giả đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Hình ảnh vừa tả thực vừa có tính chất ước lệ làm nổi bật ý đó. (Ba quân khí thế mạnh mẽ tựa như hổ báo...).

+ Hai câu thơ sau:

- Là một tướng trẻ luôn sục sôi khát vọng dấn thân, khát vọng cống hiến phò vua giúp nước, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân ái quốc, đề cao quan niệm về chí làm trai của Nho giáo. Vì thế nên khi chưa trả được nợ công danh thì bản thân tự thấy hổ thẹn:

Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

(Nam nhi vị liệu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.)

- Phạm Ngũ Lão lấy gương sáng trong sử sách (Vũ Hầu), soi mình vào đó mà tự động viên mình cố gắng phấn đấu. Quan niệm về nợ công danh của ông gắn liền với quyền lợi của nhân dân, đất nước nên rất tích cực và tiến bộ.

- Ông muốn sống sao cho xứng đáng với thời đại anh hùng và dân tộc anh hùng.

3. Kết bài:

- Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có tâm hồn và trái tim thi sĩ.

- Thuật hoài đã bày tỏ được hùng tâm tráng chí của vị tướng trẻ nói riêng và cả thế hệ trẻ yêu nước nói chung; đồng thời là bài học sâu sắc về quan điểm sống mạnh mẽ và hữu ích cho mỗi chúng ta.

II. BÀI LÀM

Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320), người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tuỳ tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông. Ông cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó.

Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối năm 1984, khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Nội dung bài thơ khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.

Phiên âm chữ Hán:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.

Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 - 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Nguyên - Mông hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Đại Việt. Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo Nho. Ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài. Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là nỗi lòng. Dịch thành Tỏ lòng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ non sông.

Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng. Ở hai câu thơ đầu, tác giả bày tỏ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình - một vị tướng. Nhà thơ đã khắc hoạ vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những chiến binh quả cảm.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu.

Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quần thù. Tư thế của những con người chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước suốt một thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời toả sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Dịch thơ : Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn:

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)

Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự triều đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sự số một của Lưu Bị, có mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là : Cúi mình tận tuỵ, đến chết mới thôi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu (tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ông còn phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của Phạm Ngũ Lão.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình. Như thế ta có thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn sánh với Vũ hầu. Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim rồi soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, tự trọng đáng quý cần phải có một đấng trượng phu. Là một tuỳ tướng thân cận của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ. Ông đã dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra những cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Phạm Ngũ Lão suy nghĩ rất cụ thể và thiết thực: một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy tức là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thoả. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn sống cho xứng đáng với thời đại anh hùng, dân tộc anh hùng.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng chí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.