Bài làm

Xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam khoảng nửa đầu thế kỉ XIX, Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đem đến cho văn học thời kì này một diện mạo mới, một cách nhìn mới, một cách cảm mới. Hay nói đúng hơn, Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ được xem như một hiện tượng lạ cả về nội dung và nghệ thuật của một tính cách đặc biệt, một tài thơ đặc biệt.

Ngay từ câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện một quan niệm sống độc đáo:

Vũ trụ nội mạc phi nhận sự.

Ông coi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải là phận sự của ông. Câu thơ toàn âm Hán, vang lên thật trang trọng, thiêng liêng và đầy kiêu hãnh. Điều đó thể hiện sự tự tin, ý thức sâu sắc về trách nhiệm của chính mình đối với đời. Đây là một quan niệm tiến bộ, thể hiện chỉ làm trai, cũng như tinh thần trách nhiệm đối với đời, với người của Nguyễn Công Trứ. Chỉ làm trai, chí tang bồng, nợ tang bồng không phải là ngẫu nhiên, mà chính là lẽ sống tích cực của một nhà nho chân chính.

Trong bài ca ngất ngưởng, thái độ tự tin, kiêu hãnh được thể hiện bằng một giọng ngất ngưởng ngang tàng. Ông tự gọi mình là ông Hi Văn, tự giới thiệu chính mình là người có tài lớn (tài bộ) và coi việc làm quan như vào lồng. Đó là thái độ bất mãn trước cuộc đời, thái độ ấy vừa như trang nghiêm lại vừa như hài hước. Bằng biện pháp nghệ thuật liệt kê, tác giả đã kể ra một cách đầy đủ tự hào về những chức vị của mình: Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông, lúc bình Tây, cờ Đại tướng... ngất ngưởng trong đoạn thơ này thể hiện rõ ý thức của tác giả về tài năng của bản thân mình.

Thái độ ngất ngưởng không phải chỉ là có lúc ra làm quan, mà cả sau khi về hưu, Nguyễn Công Trứ vẫn thể hiện thái độ ấy một cách đậm nét hơn, và có khi càng ổn định hơn. Có lẽ khi đã thoát ra khỏi chốn quan trường đầy xấu xa, con người ấy như được tháo cũi sổ lồng, vốn đã không chịu sự ràng buộc nào, lại càng trở nên ngất ngưởng, ông ngất ngưởng trong cách sống: một cách sống khác đời, khác người:

Đồ môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Người đời thường cưỡi ngựa, còn Nguyễn Công Trứ cưỡi bò lại đeo nhạc ngựa cho bò, và cười với một tư thế thung dung:

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên đủng đình một đôi di

Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng.

Không chỉ trong cách sống, thái độ ngất ngưởng còn được thể hiện rất rõ trong quan niệm được mất, sự lạc, quan bình thản trước cuộc đời:

Được mất dương dương người tại thượng

Khen che phơi phới ngọn đồng phong.

Ông quan niệm được mất là lẽ thường như tái ông thất mã, sướng khổ, may rủi ở đời đều như nhau, vì thế không cần phải vội vàng, hốt hoảng và khen chế là chuyện thường tình, chẳng có gì phải suy nghĩ, bi quan, sầu muộn mà hãy phơi phới như ngọn đồng phong hưởng trọn niềm vui:

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật, không tiên, không vướng tục.

Xã hội phong kiến là một xã hội vô số những khuôn mẫu, luật lệ khắt khe, hà khắc, do đó quan niệm cũng như cách sống của nhà thơ như là một thử thách, chọc ghẹo đời. Nhưng xét cho sâu, thái độ và cách sống ấy bắt nguồn từ một bản lĩnh, một ý thức muốn khẳng định cải cá nhân độc đáo của mình. Điều này thì trước ông, Hồ Xuân Hương cũng đã từng là những nhà thơ ý thức được chính mình, dường như họ muốn chống lại sự vùi dập, bất công đang kìm hãm, bóp nghẹt cái tôi của xã hội phong kiến. Họ muốn vươn lên để khẳng định chính mình. Mặt khác, quan niệm, cách sống ấy của Nguyễn Công Trứ còn bắt nguồn từ sự ý thức về tài năng và phẩm giá của chính bản thân mình. Vì thế ông tự ví mình với các danh tướng đời Hán, Tổng của Trung Hoa:

Chằng Thái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Và đau đáu một tấm lòng trước sau vẹn toàn

Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung

Câu thơ làm xúc động lòng người, rưng rưng như một lời thề son sắt. Đã sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn, Nguyễn Công Trứ đã thành đạt và ra làm quan, hăm hở bước vào chốn quan trường với một lẽ sống mới, cố gắng vươn lên trong một vận hội để khẳng định mình, vì:

Đã sinh ra ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.

Dù chốn quan trường có làm cho ông thất vọng, trải qua bao thăng trầm, nhưng ông đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã được lịch sử ghi nhận. Tâm hồn và nhân cách của ông được người đời ca ngợi, phong cách của ông còn in đậm trong mỗi trang thơ.

Bài thơ kết thúc bằng câu thơ lấp lửng Trong triều ai ngất ngưởng như ông, như là câu hỏi, lại như là khẳng định, vừa như tự hào, ngợi ca, lại như giễu mình, tự bạch, nhận xét, đánh giá mình.

Đọc Bài ca ngất ngưởng ta cảm nhận một sự lựa chọn rất riêng, một con đường riêng giải phóng cá tính, giải phóng cá nhân. Bài thơ cũng thể hiện cách sống cao đẹp, độc đáo, ngất ngưởng mà không quên đời, không dị hợm. Quan niệm ấy, cách sống ấy sau này ta đã bắt gặp ở sự kế thừa và phát triển của các nhà thơ, nhà văn tài năng giai đoạn cuối của văn học trung đại và văn học hiện đại như Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Tuân. Đó là sự trường tồn, sự vĩnh hằng của một nhân cách lớn, một tài năng lớn.