Bài làm

Như một hiện tượng văn học trung đại, Hồ Xuân Hương được tôn vinh là một bậc kì nữ, kì tài. Nàng là một kì nữ kì tài vì nàng trí tuệ hơn người, là “Bà chúa thơ Nôm” với lối viết lạ lùng đến kinh ngạc. Thời Xuân Hương là thời những người đàn bà suốt đời nhất nhất chỉ biết ép mình theo khuôn khổ tam tòng tứ đức, lặng lẽ ngậm bồ hòn làm ngọt, sống tan loãng vào gia đình, lấy hạnh phúc của người khác làm niềm vui lẽ sống, lấy sự hi sinh cho chồng con làm hạnh phúc của chính mình. Như mặt trăng, họ chỉ biết tỏa sáng vì người khác, tận tụy vun đắp cho tổ ấm, sinh con đẻ cái, nhẫn nại cam chịu như hạt mưa sa, như con rùa tội nghiệp, như cái giêng giữa đàng... Cuộc đời cứ thể chảy trôi, để rồi mọi kiếp người đều lặp lại số phận buồn tẻ, làm con gái, làm vợ, làm mẹ, làm bà và âm thầm đi vào lòng đất.

Xuân Hương là một người đàn bà đa đoan lệch chuẩn, nàng không xuất hiện như một cái bóng mờ bên chồng trong gia đình mà là một cá nhân độc lập ngoài xã hội. Người đàn bà “quả kích cỡ” ấy trời cho cái gì, trời lấy đi của nàng cái đó. Nàng thông minh, mẫn tiệp, yêu đời, khát khao hạnh phúc thì suốt đời mệnh bạc. Nàng ôm đàn mà vắng cả năm cung. Người có khả năng tuyệt vời làm mẹ, làm vợ nhưng luôn gặp chuyện éo le trong đường tình duyên, đơn côi giữa cõi trần. Căn nhà tăm tối, lạnh lẽo, không ánh sáng, không lửa âm, đó là hình ảnh cuộc đời nàng. Và đó là bi kịch lớn nhất của kiếp đàn bà, bởi đối với họ hạnh phúc, tình yêu, tổ ấm gia đình vô cùng thiêng liêng và quan trọng. “Thuyền mạnh vì lái, gái mạnh vì chồng”. Như rồng không vậy, Xuân Hương càng tài hoa, càng bạc mệnh. Đã hai lần nàng nhắm mắt, vin vào chút phận “sắn bìm”. Nhưng cả hai lần “cố đấm ăn xôi, xôi lại hầm”, gần như suốt đời nàng độc thân với những bi kịch của kiếp hoa bị vùi dập.

Nỗi đau của Xuân Hương đâu phải của riêng nàng: “Chỉ có những nhà văn bé nhỏ mới nói lên tiếng nói của riêng bản thân mình, và cũng chỉ anh ta nghe được tiếng nói khóc than lí nhí của anh ta mà thôi” (Billinski). Xuân Hương đã ôm trong trái tim nỗi đau của cả thời đại - một thời đại đầy bi kịch. Xuân Hương mang trong mình bi kịch của Thủy Kiêu, của nàng đgiêni Grăngđề tội nghiệp, của người phụ nữ đơn chiếc trong ca dao:

Tròng tránh như nón không quai

Như thuyền không lái như ai không chồng.

Nàng thu nhận cả bi kịch của người cung nữ, cả nỗi đau của người chinh phụ, cả nỗi đoạn trường của công chúa Ngọc Hân lá ngọc cành vàng. Trong xã hội phong kiến suy tàn, mọi người đàn bà đều chịu chung số phận bất hạnh:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(Nguyễn Du)

Dù an phận như Thị Kính, hay phóng túng như Thị Mầu, liều lĩnh như Súy Vân thì họ đều đồng quy ở nỗi đoạn trường cay đắng mà trong thắm sâu trái tim, mọi phụ nữ đều muốn bình yên, hạnh phúc. Cực chẳng đã, Xuân Hương đành phải vùng lên chống lại xã hội phong kiến tàn nhẫn, chống lại cường quyền với thần quyền cất tiếng nói đòi quyền sống cho người phụ nữ. Đó là quyền làm mẹ, làm vợ, quyền được yêu và hạnh phúc lứa đôi - những quyền sống tối thiểu và thiết yếu của con người.

Thơ Xuân Hương là tiếng hát trái tim của Xuân Hương. Đó là những vần thơ của người phụ nữ viết cho người phụ nữ. Văn chương nàng in rõ sắc màu giới tính, bởi đàn bà luôn nhìn đời bằng con mắt riêng. Xuân Hương không chỉ cảm nhận cuộc đời bằng cái nhìn giới tính mà còn cảm nhận bằng cái nhìn đầy cá tính. Nàng đã có một cái nhìn sắc nhọn của phóng sự vì đã chọn những điểm nóng bỏng của cuộc sống, và bắt đầu từ mặt trái của xã hội phong kiến thối nát. Là một người khát sống, thèm yêu, nàng đã cảm nhận thế giới bằng toàn bộ giác quan, bằng đôi mắt xanh non mới lạ, bằng đôi tai thính nhạy, bằng xúc giác mạnh mẽ, bằng tất cả sức sống của tuổi trẻ, chứ không phải chỉ bằng cái tâm, cải chỉ như các nhà nho hành đạo. Góc tiếp cận thực tại mới mẻ này đã giúp Xuân Hương phát hiện và lí giải hiện thực một cách hết sức độc đáo. Ở nàng đã xuất hiện một quan niệm mới lạ về con người. Con người xuất hiện mang màu sắc cá nhân, con người với những đặc điểm về giới tính, với hạnh phúc trần tục, với tình yêu và khát vọng tình yêu. Dưới con mắt của kẻ khát sống, thèm yêu, vạn vật dường như ở trạng thái nhún nhảy, mời gọi. Nàng đã phả vào cái thế giới động cứng, già nua một sức sống mới. Tất cả như được lại hóa, trở nên cựa quậy sống động, rõ ràng, trẻ trung, tinh nghịch, đáng yêu. Toàn bộ sáng tác của Xuân Hương được soi chiều qua cái nhìn độc đáo của giới tính, của một cá tính sáng tạo.

Với cái nhìn của phái đẹp, mục đích cuối cùng mà Xuân Hương ngưỡng vọng kiếm tìm chỉ là việc hướng tới hạnh phúc cho con người, giải phóng người phụ nữ ra khỏi sự trói buộc nghiệt ngã, khắt khe của lễ giáo phong kiến ngàn đời. Nàng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó. Kế như thế đã là quá nhiều. Còn nhiệm vụ giải phóng xã hội đã có những đấng mày râu như Chàng Lía, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Huệ... đảm đương. Người đàn bà đơn thương độc mã một mình chống lại “mafia” đành phải chọn một thủ pháp có phần cực đoạn mà phương Tây gọi là “Grotesque”. Cuộc đời buộc Hồ Xuân Hương phải chao chát, phải bỗ bã, suồng sã, dữ dằn, thậm chí phải văng tục. Nhưng nàng tục thì có tục chứ không dâm, Xuân Hương tục mà không dâm vì tục chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích của thơ nàng (Đây là điều mà xưa nay các nhà nghiên cứu thường đặc biệt quan tâm khi nhắc đến thơ nàng). Cái tục giúp Xuân Hương hạ bệ thần tượng, lên án cường quyền và thần quyền, lột trần mặt đạo đức giả của kẻ đại diện cho tôn ti trật tự phong kiến. Đó là điều mà giai cấp phong kiến kiêng kị, lo sợ, và luôn tìm mọi cách bưng bít. Tất cả lũ vua chúa hiện nhân quân tử, quân thị, sư sãi, những đại diện cho chế độ phong kiến suy tàn đều bị Xuân Hương vạch mặt chỉ trán, bắt quả tang giữa thanh thiên bạch nhật phạm tội thèm muốn dục tình:

Hiền nhân quân tử ai mà chẳng

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

(Đèo Ba Dội)

Chúa dâu vua yêu một cái này

(Vịnh cái quạt)

Nếu chỉ thấy một Hồ Xuân Hương nổi dậy mà chưa thấy một Xuân Hương với trái tim người đàn bà tự hát, một Xuân Hương đã rút ruột thành tơ, dệt nên những vần thơ óng ánh sắc màu và trĩu nặng ưu tư và chưa thấy cái hồn Xuân Hương gửi gắm trong thơ. Nàng có một đời sống kép. Nàng là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập: sự yêu mềm, tinh tế rất đàn bà và sự thông minh, cứng cỏi đầy bản lĩnh làm đám mày râu muôn thuở phải “kính nhi viễn chi”. Mà sự dịu dàng mới là yếu tố làm nên sức hấp dẫn, độc đáo của thơ Xuân Hương.

Xuân Hương là sự thống nhất giữa một trái tim nhân hậu, đa cảm và bộ óc mẫn tiệp, thông tuệ, bởi nhiều yêu thương nên lắm âu lo. Và hai nửa ấy đan xen, hòa quyện tạo nên một Xuân Hương kì nữ, kì tài. Đó là sự gặp gỡ giữa hai nền văn hóa đã sinh ra một Xuân Hương, nhưng gien trội ở nàng thuộc về văn hỏa mẹ và đó là cái duyên làm cho nàng trở nên tràn trề sức sống. Khả năng gợi trường liên tưởng, gợi trí tò mò, tài sử dụng ngôn ngữ thiên biến vạn hóa ấy Xuân Hương đã thừa hưởng từ dòng sữa dân gian, từ những câu đố thần tình thanh thanh tục tục:

Đỏ choen choét

Toét tòe loe

Xanh lè tè

Quắp quằm quặp

(Hoa chuối)

Cũng tư duy nghệ thuật ấy, Xuân Hương đã phát huy và dân chủ hóa văn chương bác học một cách điệu nghệ thân tình. Ngôn ngữ trong thơ bà căng phồng ý nghĩa, không đứng yên mà nhảy múa:

Cỏ gà lún phún leo quanh mép

Cá diếc le te lách giữa dòng

(Cái giếng)

Chành ra ba góc da còn thiếu

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa

(Vịnh cái quạt)

Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp

Lách khe nước ở mỏ lam nham

(Hang Thanh Hóa)

Là người trong cuộc, Xuân Hương dũng cảm bênh vực cho quyền lợi của những người phụ nữ. Nàng công khai giải quyết những vấn đề của người phụ nữ, công khai đề cập đến quyền lợi và hạnh phúc lứa đôi của con người. Điều đó làm cho nàng hình như đi trước thời đại, cũng là lí do mà độc giả phương Tây cảm thấy Xuân Hương trở nên thân thiết, gần gũi với họ. Còn giai cấp phong kiến coi nàng như một kẻ nổi loạn. Những ý tưởng mới lạ, táo bạo bất ngờ của nàng như một cơn gió mát lạnh, thấm đẫm tinh thần nhân văn dân chủ, song cũng là ngọn roi sắt quật thẳng vào chế độ phong kiến tàn bạo, góp phần làm rung chuyến tôn ti trật tự của nền chuyên chế thối nát ấy.

Trên cả hai phương diện lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học, Xuân Hương đã có những đóng góp rất quan trọng và độc đáo mà trước đó và đương thời không ai làm được. Vì thế Xuân Hương đã trở thành một nghệ sĩ lớn, một bậc kì nữ, kì tài.