Bài làm

Những nhà thơ lớn xưa nay đều là những nhà thơ của cảm thức về thời gian. Trong ba bài Tự tình của Hồ Xuân Hương thì có tới hai bài cảm thức về thời gian đã trở thành cái nền của tâm trạng. Bài Tự tình I mở đầu và kết thúc là những câu thơ cảm thức về thời gian: “Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”, “Thân này đâu đã chịu già tom”. Bài Tự tình II cũng là một kết cấu vòng tròn, mở ra bằng thời gian: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn” và khép lại cũng trong sự cảm nhận về thời gian: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại - Mảnh tình san sé tí con con".

Thời gian là một thế lực nghịch đối với cuộc sống của con người, đặc biệt là với tuổi trẻ và tình yêu. Ý thức của tuổi trẻ, về tình yêu thương thường đi liên với cảm thức về thời gian. Hồ Xuân Hương là người ý thức rất sắc về duyên tình, duyên phận, hơn nữa bà lại là nhà thơ của ý thức về nữ tính nên thời gian càng sâu đậm hơn. Cảm thức về thời gian trong thơ Hồ Xuân Hương gắn liền với duyên tình, duyên phận. Bà vừa thách đố thời gian để nở nụ cười chiến thắng: “đầu đã chịu già tom!”, lại vừa phải thừa nhận một thực tế phũ phàng để ngậm cười chua chát: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”. Để hiểu bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương có lẽ cũng cần xuất phát từ khía cạnh trên.

Bài thơ nêu lên một nghịch đối: Duyên phận muộn màng, lỡ dở trong khi thời gian cứ lạnh lùng trôi qua. Nghịch đối này dẫn đến tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất nhưng cuối cùng vẫn đọng lại nỗi xót xa. Ở bài Tự tình II, nỗi niềm buồn tủi của Xuân Hương cũng được gợi lên giữa một đêm khuya:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trợ cái hồng nhan với nước non

Thông thường, giữa không gian rợn ngợp, con người cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn. Ở đây Xuân Hương lại cảm nhận sự cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thủy, vô chung như không gian nhưng chứa đựng trong bước đi của nó còn là sự phá hủy. Cái môtíp “văng vẳng” trong thơ Hồ Xuân Hương dù có đùa vui thì cũng là môtíp não lòng: “Văng vòng tai nghe tiếng khóc gì", (Bổn bà lang khóc chồng), “Văng vắng tai nghe tiếng khóc chồng” (Dỗ người đàn bà chồng chết) Trong hai bài Tự tình, mô típ “văng vẳng” không đơn thuần là cảm nhận âm thanh mà còn là “nghe” thời gian trôi. So với cáu thơ đầu của bài Tự tình : “Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” thì câu đầu bài Tự tình II buồn hơn “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trồng vừa là sự cảm nhận, vừa là sự thể hiện bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời của tâm trạng. Khi trăm mối tơ lòng không thể gỡ mà thời gian gấp gáp cứ trôi thì còn lại là sự bẽ bàng:

Trơ cái hồng nhan với nước non

Từ “trơ” đặt câu với nghệ thuật đảo ngữ, bên cạnh bản lĩnh Hồ Xuân Hương vẫn là nỗi đau Xuân Hương, nó cũng cùng hàm nghĩa với từ “trơ” thể hiện tâm trạng Kiều bị bỏ rơi không chút đoái thương: “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ”. “Trơ” là tủi hổ, “trợ” là bẽ bàng. Thêm vào đó, hai chữ “hồng nhan” là để nói về dung nhan thiếu nữ mà lại đi với từ “cái” thì thật là rẻ rúng mia mai. Cái hồng nhan “trơ” với nước non là sự phơi phang, nó không chỉ là dầu dãi mà còn là cay đắng. Dù câu thơ chỉ nói về một vế “hồng nhan” nhưng vẫn gợi lên vế “bạc phận”, vì vậy nỗi xót xa càng thấm thía, càng ngẫm lại càng đau. Nhịp điệu câu thơ: “Trơ cái hồng nhan/ với nước non” cũng là để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.

Như nhiều bài thơ làm theo thể Đường luật, hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình Hồ Xuân Hương:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Dường như Xuân Hương đã “ngôi nhẫn tàn canh”, ngồi một mình trong cô đơn đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người. Cảnh tình Hồ Xuân Hương được thể hiện qua hình tượng thờ chứa đựng hai lần bị kịch: trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Cuộc rượu say rồi tỉnh mà cũng là cuộc tình có vương vít rồi cũng tan mau, Rượu tàn cơn say còn lại sự rã rời. Tình sau giấc mộng còn lại nỗi chán chường. Hương rượu để lại vị đắng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn phận hẩm duyên ôi. Cái vòng luẩn quẩn “say lại tỉnh” gợi lên sự cảm nhận duyên tình đã trở thành trò đùa của con tạo. Thúy Kiều “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh - Giật mình mình lại thương mình xót xa” còn Xuân Hương khi tỉnh rượu, lúc trăng tàn, bóng xế lại ê ẩm trong nỗi cô đơn ê chề.

Tuy nhiên, ở Xuân Hương, nỗi buồn tủi bao giờ cũng gợi lên một phản ứng tích cực hơn. Đó là niềm phẫn uất, là sự phản kháng. Bên cạnh nỗi đau Xuân Hương là bản lĩnh Xuân Hương. Bản lĩnh ấy đã thể hiện ngay trong chữ “trơ” ở câu thừa đề: “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Chữ “trơ” kết hợp với từ “nước non” thể hiện sự bền gan, thách đố. Nó có cùng hàm nghĩa với chữ “trơ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Đả vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Thăng Long thành hoài cổ).

Nỗi niềm phẫn uất của Xuân Hương trong bài Tự tình I lan tỏa, bao trùm cảnh vật: “Oán hận trông ra khắp mọi chòm” thì giờ đây tiếp tục tỏa lan ra cả trời và đất. Với nỗi oán hận trông ra”, nữ sĩ thấy:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Thiên nhiên như cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé hèn mọn, còn hèn mọn hơn cả “cỏ nội hoa hon” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên mà là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng là sự phẫn uất của tâm trạng. Bên cạnh đó, những động từ mạnh “xiên”, “đâm” được kết với bổ sung ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo đã thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch đất, vạch trời mà hờn oán, không chỉ là phẫn uất mà còn là phản kháng. Cách dùng từ “xiên ngang”, “đâm toạc” là cách dùng từ rất Xuân Hương. Nữ sĩ đặc biệt tài năng khi sử dụng các từ làm định ngữ và bổ ngữ: quen chân xọc, mỏi mắt dòm, khóc tỉ ti, vỗ phập phòm, rơi lõm bõm, già tom, phường lòi tói, chím mõm mòm... Chính cái phần tưởng như phụ này lại gây ấn tượng mạnh mẽ, làm nên cái đặc sắc, cái độc đáo, cái cá tính sáng tạo của Hồ Xuân Hương. Chính những định ngữ, bổ ngữ này làm cảnh vật trong thơ Xuân Hương bao giờ cũng cựa động, căng đầy sức sống. Một sức sống mãnh liệt ngay cả trong tình huống bi thảm nhất.

Thế nhưng, bi kịch của Hồ Xuân Hương là ở chỗ “bà không mảy may có cảm giác thua cuộc”, nhưng kết quả là Hồ Xuân Hương thua cuộc. Bài Tự tình II kết lại bằng tâm trạng chán chường, buồn tủi:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con.

“Ngán” là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương “ngán” lắm rồi nỗi đời éo le, bạc bẽo. Xuân đi rồi xuân lại, tạo hóa chơi một vòng quanh luẩn quẩn. Từ “Xuân” mang hai nghĩa, vừa là “mùa xuân” vừa là “tuổi xuân”. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn hoa lá cỏ cây, nhưng với con người thì tuổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Thêm một lần xuân là một lần nỗi buồn lớn hơn. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang hai nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghịch cảnh càng éo le hơn bởi nghệ thuật tăng tiến trong câu thơ cuối: Mảnh tình san sẻ tí con con. Ở đây không phải là “Khối tình cọ mãi với non sông” mà là mảnh tình. Mảnh tình đã bé lại còn “san sẻ” thành ra ít ỏi, chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có thể là từ tâm trạng của người đã mang thân đi làm lẽ? Tuy nhiên, cái tầm khái quát của nó lại lớn hơn một hoàn cảnh lấy chồng chung. Nó là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi với họ hạnh phúc luôn là “chiếc khăn quá hẹp”. Vì vậy, nỡ trách gì tác giả bài Tự tình II sau khi viết hai câu luận đầy ngang tàng, thách thức lại hạ hai câu kết chán chường, buồn tủi. Có lẽ vì cả hai điều, vừa đau buồn, vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch, vì cả hai điều ấy mà ý nghĩa nhân văn của chùm thơ Tự tình sâu sắc hơn, thấm thía hơn.

Câu thơ Hồ Xuân Hương “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại” đã tìm thấy lời đồng vọng trong thơ Xuân Diệu sau này:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

(Vội vàng)

Nếu những câu thơ như trên đã góp phần đưa Xuân Diệu trở thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) thì lẽ nào Hồ Xuân Hương không là nhà thơ mới nhất trong nhà thơ cổ điển Việt Nam? (Lã Nhâm Thìn - Bình giảng thơ Nôm Đường luật)