Bài làm
Nhắc đến Tố Hữu, các nhà phê bình và nghiên cứu văn học thường gọi ông là lá cờ đầu, hay cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Quả thật, chặng đường thơ của Tố Hữu gần như đi sát với chặng đường đấu tranh cách mạng gian khổ của toàn dân tộc. Trên chặng đường dài gian lao ấy, bó hoa đầu tiên mà Tổ Hữu dâng tặng cho đời là tập thơ Từ ấy (xuất bản năm 1946).
Từ ấy là tiếng hát hân hoan nồng nhiệt của một tâm hồn trẻ khát khao lẽ sống, say mê lí tưởng, hăng hải đấu tranh cách mạng. Từ ấy tập hợp những sáng tác của Tố Hữu trong mười năm (1937 - 1946). Nội dung tập thơ được chia làm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng. Trong đó, phần Xiềng xích vẫn được xem là hay hơn cả. Bài thơ Nhớ đồng được viết vào tháng 7 năm 1939, trong nhà tù ở Huế, được xem là một trong những bài thơ tiêu biểu thuộc phần này.
Ngay từ nhan đề bài thơ đã toát lên một vẻ rất chân thực và gần gũi: Nhớ đồng. Như vậy, chủ đề của bài thơ đã hiện lên khác rõ nét: nỗi nhớ thương về đồng ruộng, quê hương. Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ chất chứa bao tình cảm chân thành:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Đây không phải là hai câu thơ chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong tòan bài thơ. Nó còn trở đi trở lại liên tục tới ba lần nữa, như một ám ảnh, với sự thay đổi chút ít về mặt hình thức.
GÌ sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!
Điều được nhấn đi nhận lại ở đây chính là một thời gian đầy vắng lặng: buổi trưa trong một không gian có lẽ cũng chẳng lấy gì làm rộng rãi. Bởi thế nên nỗi nhớ về ruộng đồng quê mới xuất hiện, tha thiết khôn nguôi. Đó là một nỗi nhớ có chiều sâu, nghĩa là nó trở đi trở lại không phải chỉ có một, hai lần. Người ta chỉ nhớ về ruộng đồng quê - một không gian quen thuộc, khoáng đãng, khi rơi vào một trong hai trường hợp: Một là đã xa quê lâu ngày, mà nỗi nhở quê trở thành một nỗi day dứt. Hai là từ một không gian giam hãm chật hẹp, hướng về một không gian khoáng đạt, tự do. Tố Hữu rơi vào cả hai trường hợp này. Chính vì vậy, nỗi nhớ đồng càng trở nên tha thiết: Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!
Nhở về đồng quê là nhớ về quê hương, là nhớ đến những cảnh sắc êm đềm, gần gũi, tựa như tĩnh lặng.
Đầu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thủa yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ở ven sông.
Thân thuộc quá! Dường như đâu đây có cả mùi nồng của đất, mùi thơm của khoai, mùi mát mẻ dịu nhẹ của sương chiều chậm xuống trên từng ô ruộng nhỏ. Đấy là mùi của quê hương! Là mùi mang đến sự bình lặng cho tâm hồn con người. Làng quê, ấy là cội rễ sâu thẳm tâm hồn mỗi người. Trở về làng quê là trở về cái gì yên ả, gần gũi, là tìm về với những cảm giác mà chẳng nơi nào có thể mang đến được.
Sau nỗi nhớ về cảnh quê là nỗi nhớ về những con người nơi thôn dã:
Đâu những lưng cong xuống luống cày
... Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?
Hình ảnh con người trong bài thơ là hình ảnh những người lao động lam lũ, gắn bó với đồng ruộng, quê hương. Họ không phải là linh hồn của đất quê, đồng quê mộc mạc. Chính những con người cần cù lam lũ đã làm nên một hồn quê hiền lành, chất phác, khoai sắn tình quê rất thật thà.
Nỗi nhớ đồng quê dào dạt trở về trong tâm trí chàng thanh niên trẻ. Nhưng tất cả chỉ là quá vãng, tất cả không còn hiện diện ở hiện tại. Liên tục suốt hơn nữa bài thơ, Tố Hữu liên tục lặp đi lặp lại câu hỏi: đâu... Tất cả là gần gũi, tất cả là thân thương. Nhưng tất cả đã cách biệt, quá xa xôi. Vậy nên gợi lên một nỗi thương nhớ không chỉ thiết tha, mà còn hết sức chua xót trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi rơi vào trong im lặng. Không thể có câu trả lời.
Sau tất cả những nỗi nhớ về cảnh vật và con người quê hương, Tố Hữu lại quay sang chiêm nghiệm về cuộc đời mình: còn những tháng ngày băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, cho đến những ngày say đồng hương nắng vui ca hát... Con đường lựa chọn là con đường đầy gian khổ, nhưng nhất định nó không làm chàng trai mười chín tuổi ấy phải chùn bước. Trong nhà lao, chàng vẫn hướng ra thế giới bên ngoài với một tình cảm nhở thương và nỗi khát khao tự do cháy bỏng. Hình ảnh cánh chim buồn nhớ gió mây đọng lại cuối bài thơ như một nỗi ám ảnh về tự do. Tự do - ấy là thế giới mà chàng đang hướng tới: tự do để yêu thương và tự do để hành động.
Người ta thường nói đến chất Thơ mới trong thơ Tố Hữu ở giai đoạn đầu. Quả là Tố Hữu đã chịu ảnh hưởng không nhỏ của phong trào này. Song khác với các nhà Thơ mới, Tố Hữu không chỉ đơn thuần giải bày và bộc lộ cái tôi giàu cảm xúc. Ông đã xem con đường thể hiện cảm xúc trữ tình của cái tôi cá nhân là dòng suối nhỏ đổ về đại dương nhân dân, là con đường để hòa nhập với nhân dân, với con người. Thơ Tố Hữu không dừng ở lời nói. Thơ ông còn là hành động, là ý chí sắt đá, là quyết tâm cao độ cho mục đích cao cả của đời mình. Thơ ông đã là tiếng nói chung thôi thúc biết bao thế hệ trên con đường đấu tranh cách mạng.
Và nếu như đối với các nhà nghiên cứu, thơ Tố Hữu còn sống mãi là bởi nó là tiếng hát của cánh chim đầu đàn, thì đối với bạn yêu thơ Việt Nam, Tố Hữu sống mãi, trước hết là vì thơ ông là tiếng nói tình cảm thiết tha chân thành của một tâm hồn giàu cảm xúc, sẵn sàng mở rộng lòng mình để hòa cùng những hồn đồng điệu.