Bài làm
Xuất dương lưu biệt không những là bài thơ hay, mà còn là một mốc quan trọng đánh dấu cuộc đời hoạt động cứu nước sôi nổi cùng thơ văn cổ động lòng yêu nước và đấu tranh cách mạng đầy nhiệt huyết của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Bài thơ được ứng khẩu trong hoàn cảnh tác giả tạm biệt bạn bè đồng chí để lên đường. Xuất dương lưu biệt là bài ca hào sảng và hùng tráng về chỉ nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng.
Bài thơ Xuất dương lưu biệt là giờ phút con hổ được về rừng, con cá kình được ra biển khơi, con đại bàng được tung cánh, dù phía trước còn biết bao khó khăn và nguy hiểm, nhưng chúng có cái hạnh phúc được vẫy vùng. Sau một thời gian tham gia các phong trào yêu nước nhưng không đem lại hiệu quả, Phan Bội Châu đã trăn trở suy tư tìm ra một con đường cứu nước mới để đưa nước Việt Nam hùng mạnh như các nước ở Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản). Đến năm 1905, ông giã biệt bạn bè để sang Nhật cầu giúp đỡ. Xuất dương lưu biệt là những lời lẽ tỏ rõ quyết tâm của ông trước khi lên đường:
Làm trai há phải lạ trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Câu thơ thể hiện rõ quan niệm về chỉ nam nhi của Phan Bội Châu, làm trai trước hết phải được sự nghiệp anh hùng. Chúng ta bắt gặp ý thơ này trong bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu.
Hay trong thơ của Nguyễn Công Trứ:
Chỉ làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.
Quan niệm của cụ Phan giống với các nhà nho thuở xưa, đã làm con người sống trong trời đất này, phải làm được một điều gì đấy, đã sinh ra làm kẻ nam nhi thì cũng phải mong có điều lạ. Nhưng tới câu thơ thứ hai, ý thơ của Phan Bội Châu đã bắt đầu khác: Lẽ nào để trời đất chuyên vần lấy sao. Người anh hùng tiết tháo Đặng Dung đã từng chua chát nhận ra thời vận (tức ý trời) là nhân tố quyết định nên sự thành bại, chứ không phải do tài năng của bản thân:
Thời lại đồ điếu thành công dị
Vận khử anh hùng ẩm hận đa.
(Gặp thời thì người câu cá cũng dễ dàng làm nên công trạng
Vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ nuốt hận mà thôi).
Với Phan Sào Nam thì ngược lại, ông đặt con người ngang tầm với càn khôn (đất trời). Càn khôn xoay vần cuộc đời thì có gì con người không xoay vần được càn khôn. Người xưa nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (Mưu việc do con người, nhưng thành công bởi ý trời). Phan Bội Châu không đề cập chuyện thành bại ở đây nhưng ý chỉ dám xoay lại càn khôn thì không chỉ ngang tàng, bướng bỉnh mà có phần tự tin, lạc quan. Thoát khỏi tư tưởng thiên mệnh là bước đột khởi để người chiến sĩ cách mạng thực hiện chí nam nhi của mình.
Sau khi so mình với càn khôn, tác giả lại so mình với đồng loại:
bách niên trung trĩ hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở hà không ai?).
Hào kiệt xưa kém thua càn khôn nhưng với đồng loại thì tự cho mình là xuất chúng, không bao giờ chịu ở trong đám đông tầm thường. Với Phan Bội Châu thì khác nhiều, ông vừa đánh giá cao cá nhân anh hùng, nhưng cũng không coi cá nhân ấy là duy nhất. Câu thơ thứ ba của bài rất gần với ý thơ của Nguyễn Công Trứ:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Nhưng ở câu thơ thứ tự thì lại rất khác. Tác giả đặt vai trò của cá nhân mình bình đẳng với các cá nhân khác, tuy rằng đó mới chỉ là một câu nghi vấn: Sau này muôn thuở, há không ai? Nhưng đã chứng tỏ Phan Bội Châu không coi mình là duy nhất. Bản thân là một nhà nho, nhưng không vì thế mà Phan Bội Châu giữ lấy sự cố hữu của nhà nho, trái lại ông là con người của thực tiễn, hăm hở với trào lưu đổi mới. Đầu tiên đó là sự đổi mới của tư tưởng nhận thức:
Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Nhà thơ đã đặt số phận của đất nước bên cạnh số phận của mỗi người, điều này không phải đến Phan Bội Châu mới có. Nhưng có lẽ ít ai nói được điều đó da diết thống thiết như cụ Phan. Nước đã mất đồng nghĩa với anh hùng chịu nhục. Nhục thì phải đứng lên rửa nhục, làm được điều đó thì xứng đáng là anh hùng. Việc học cũng phải quan niệm lại. Nếu như ở Nguyễn Khuyến hay Tú Xương: Sách vở ích gì cho buổi ấy hay: Ông nghe ông cống cũng nằm Co. Chỉ là niềm cảm khải cho đạo thánh hiền đến buổi lụi tàn, thì ở Phan Bội Châu là sự phê phán đến gay gắt. Sách vở thánh hiền vô dụng mà còn ngồi trong thì chỉ là hoài, là nghi mà thôi.
Sau đổi mới về tư tưởng, nhận thức là sự đổi mới về hành động:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc biển ra khơi
(Nguyện trục trường phong động hải khứ
Thiên trùng bạc lãng nhất tề phí)
Sóng gió ở đây không phải là sóng gió bình thường, mà là gió dài (trường phong), sóng bạc (bạch lãng) tức sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào kiệt không những không sợ sóng gió mà còn coi sóng gió là bạn đường (những khó khăn nguy hiểm trên đường hoạt động) là đối tượng để mình đua sức, đua tài.
Hai câu thơ cuối thể hiện ý chí mạnh mẽ của Phan Bội Châu, mong muốn được ra đi bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Câu thơ gợi một cảm giác bừng bừng tráng khí chứ không mang một chút lo âu, cũng chẳng hề nghĩ đến quan san muôn dặm hay lữ thứ tha hương. Nhiệt huyết cứu nước cứu nòi đã lấn át đi tất cả. Câu thơ vượt biển Đông cũng ngầm ý là sang Nhật Bản, đất nước nhờ biết duy tân mà trở nên hùng cường, là tấm gương sáng cho các dân tộc noi theo.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm đã được thể hiện rõ nét trong chí làm trai của tác giả. Nó thể hiện khát vọng độc lập tự do của các bậc chí sĩ yêu nước thuở xưa. Trong bối cảnh đất nước mà: Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu, sự xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh hai vai gánh vác cả sơn hà đã thổi vào lịch sử văn học một luồng sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng mạn mà hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu muốn hát chí nam nhi, trở thành gạch nối giữa lí tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lí tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, mà tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.